Thơ Dự Thi 11-2002

09:54 08/09/2008
Phạm Khang - Lê Ngã Lễ - Phan Đình Tiến

PHẠM KHANG

Cạm bẫy
                        Tưởng nhớ Pútskin

Đối mặt với ông là đấu thủ thiện xạ
Đấu súng không phải là khuôn mặt của thi ca
Lịch sử sờ vào gáy của nhà thơ
Hai đấu thủ đã chọn cho mình khẩu súng tốt nhất
Dưới vòm trời tuyết băng...

Đối mặt với ông là đấu thủ thiện xạ
Sau lưng ông là những bài thơ về nước Nga nức nở,
                        những con đường ngục tù hun hút, tình yêu,
                                    đau khổ và cả sự hoảng loạn của tâm linh
Ông viết về phụ nữ đẹp như những lời cầu hôn
Những bài ca đã có và không có
Những số phận bị bỏ quên, những mẫu người thừa của
                                                                        thời Đế chế
Khuôn mặt gái quê đam mê, vụng dại
Thảo nguyên xanh và lũ cừu thiếu người chăn dắt
Vò rượu mu-rích đến bộ cánh trinh bạch trưởng giả
Thanh gươm của kỵ sĩ không đầu...
Tất cả bây giờ xếp hàng trên giá sách
Tất cả bây giờ nín lặng, hư không...

Đối mặt với ông là đấu thủ thiện xạ
Một gã móc túi đích danh
Cái chết rình rập nhà thơ
Thiên tài tính bằng giây
Những nền văn minh ngủ gật

Súng nổ
Ông gục ngã
Máu của ông đỏ loang trên tuyết
Ôi nước Nga! Nước Nga!
Bẫy đã sập, nhà thơ không còn nữa
  
    Và ở đâu đó, ở đâu đó có hàng
            triệu hàng triệu trái tim
                  đàn bà lặng lẽ chôn cất     
          ngôi mộ khổng lồ của ông.

Ngọn nến
                        Nhớ Nguyễn Thế Phương

Ngọn nến leo lét
Rọi chút ánh sáng yếu ớt vào linh thiêng
Chập chờn thánh giá
Run rẩy dò xét sự đa cảm
Mờ ảo những khuôn mặt mặc niệm.

Trong hữu hạn ngọn nến cháy
Xô bồ những lời than thở
Những bí mật riêng tư sám hối
Rót lệ vào thăm thẳm cô đơn...

Người ta nhiều khi phải đi qua ngọn nến
Bằng con đường vòng vô tận
Không biết ngọn nến kia đang khóc hộ cho mình.

LÊ NGÃ LỄ

Lên Bạch Mã

Len theo vách núi
Lên non
Dấu xưa rêu phủ
Vẫn còn hạo nhiên
Vờn trong dòng thác
Đỗ Quyên
Rừng cây xanh thẳm
Non thiêng vơi buồn

Ngũ Hồ thức dưới
Mây ngàn
Chợt nghe nước chảy
Qua miền nhân gian
Ai đã qua đây
Một lần
Ngàn năm non nước
Rưng rưng trong hồn
Chiều nay Bạch Mã
Trên non
Nhìn đời chiếc bóng
Vuông tròn hư không?
Chiều Bạch Mã 6/2002

PHAN ĐÌNH TIẾN

Quán Âm Phủ
                             Tặng Huế

Tôi vào quán Âm phủ
Ăn bữa cơm trần gian
Những ngón tay thiếu nữ
Mềm tựa làn khói nhang

Nơi đây là âm phủ
Của xứ sở mưa đầy
Con gái như tiên hội
Phố phường say như mây

Mai kia về âm phủ
Hồn sẽ trở lại đây
Thăm người xưa cảnh cũ
Xin em bàn tay gầy

Đem xuống chốn Âm phủ
Ta mở quán Trần Gian
Trần gian và Âm phủ
Lại yêu nhau say tràn.

Dọc triền đơn chiếc

Tận chót ngày mỏi mòn ruột đá
Màn nước đêm chua ẩm manh đời
Xin đừng lạc vũng lầy phụ nghĩa
Phía tôi đi
                        sũng ướt chân trời

Em là cỏ - sao không hiền như cỏ
Thảm non xanh nhọn sắc hơn chông
Tôi dừng bước
                        bạc phờ thành cổ
Cơn mưa nào phải hoá rêu phong

Trên triền rêu một lối về đơn chiếc
Bên vũng lầy và thảm non xanh
Ngày cháy ngày
                        Bao ngày thành vô vị
Gầy rộc đêm
Chưa một phút sang canh.

Đêm thở

Không còn là đêm
Là chuyến tàu cuồng phong chấn địa
Tôi ngồi toa nước mắt
Những số phận lên xuống
                        những nhà ga chưa đến bao giờ
Hành khách không chung ga cuối

Hãy cho tôi xuống
Hãy đuổi tôi xuống
Kẻ lậu vé của cuộc hành trình
Bỗng dưng thành chính khách chờ rạng sáng

Những cơn khát cháy mòn khát vọng
Trên cỗ xe mục rỉ ưu phiền
Nghiến dọc đêm hớp ngang cuối sáng
Tiếng cười phía sau
Tiếng khóc phía trước
Chỗ tôi ngồi tiếng thở dồn căng
Hà Nội, tháng giêng Nhâm Ngọ

(nguồn: TCSH số 165 - 11 - 2002)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ HOÀNG ANH...Mẹ ơi mẹ qua đau khổ đã nhiều sao luôn có những chùm hoa ổi trắng, lúc nào cũng nhìn con đăm đắm – vẫn tìm con trong lắng đọng tâm hồn...

  • LTS: Với một tờ báo, chắc hẳn niềm vui mừng trước hết là nhận được những bản thảo chất lượng. Nhưng cũng không vì vậy mà chúng tôi không trân trọng những bài viết chưa đạt tới “tiêu chí” Sông Hương. Giới hạn trong lĩnh vực thơ: Có không ít tác giả hầu như tuần nào, tháng nào cũng gửi từ ba bốn bài trở lên. Đều đặn bao nhiêu năm trời như thế, tính ra số thơ mà chúng tôi nhận được của họ đã có thể đóng thành một “tổng tập”. Những trang chữ viết tay, những trang vi tính quen thuộc đến mòn mắt ấy mỗi lần nhận được là chúng tôi lại hồi hộp đọc, để rồi… áy náy!Dưới đây là những bài gần như khá nhất trong số thơ lai cảo của Sông Hương.

  • Thạch Quỳ - Nguyên Quân - Đông Hà - Kiều Trung Phương - Nguyên Hào - Lê Quốc Hán - Đinh Thu - Hoàng Thị Thiều Anh - Nguyễn Phước Loan

  • ...nghe thanh âm mà không có tiếng ngườisao khép mắt mà không thể chết được...

  • Từ Nguyên Tĩnh - Lê Huỳnh Lâm - Nguyễn Thiền Nghi - Trần Hữu Lục - Mai Thìn - Cao Hạnh - Văn Công Hùng - Trần Tuấn  - Nguyễn Ngọc Phú - Đức Sơn - Trần Vạn Giã - Trần Cao Sơn - Lê Hữu Khoá - Trần Hoàng Phố - Phạm Thị Anh Nga

  • Đất nước đã vẹn toàn một mối hơn ba mươi năm, song còn đó những nỗi đau âm ỉ, thấm vào cốt xương của thân nhân các thương binh - liệt sĩ, thấm vào máu thịt của những ai từng kinh qua hoặc không kinh qua chiến tranh mà nay đều được hưởng cuộc sống yên bình. Kỷ niệm 60 năm ngày thương binh liệt sĩ(27/7/1947 – 27/7/2007), Sông Hương xin nghiêng mình trước nỗi đau không hề ngẫu nhiên đã thấm vào thơ ấy…               *Nguyễn Gia Nùng - Triệu Nguyên Phong - Trần Đức Đủ - Huỳnh Tuấn Vinh

  • Vân Long là tạng người thơ không chịu cũ. Nhà thơ luôn ý thức được việc làm mới mình để có thể đồng hành với nền thơ đương đại và nhịp thở nóng hổi của cuộc sống thường nhật.Dù là trữ tình tự sự hay nội cảm ngoại quan, thơ Vân Long luôn để lại những dấu ấn sáng tạo - dấu ấn lao động thơ. Vân Long đã từng có duyên với xứ Huế qua “Đêm sông Hương”, “Vườn Huế”... được tuyển chọn trong Tuyển thơ Sông Hương 20 năm...

  • khi em là vực sâu im lặng tôi pho tượng đá lắng nghe...

  • ...chim chích bay về đăm đắm mắtnghe phế hưng bông lơn ký ức thành xanhrêu...

  • Nguyễn Văn Quang - Trần Thu Hà - Nhất Lâm - Lê Ngã Lễ - Mai Văn Hoan - Ngàn Thương - Ngô Thị Hạnh - Nguyễn Thánh Ngã - Xuân Thanh - Phan Văn Chương - Thạch Thảo - Trần Đôn - Nguyễn Nhã Tiên - Đoàn Lam - Tiến Thảo - Đoàn Giao Hưởng

  • ...Cả thành phố lúc nào cũng rậm lờiAnh không thấy tấc vỉa hè nào dành cho mình cả...

  • ...họ mơ thấy Hồ Gươmlà một vò rượu lớnbị bỏ quênbên sông Hồng đến cả ngàn năm...

  • Mai Văn Phấn - Hoàng Chinh Nhân - Lê Huỳnh Lâm - Ngô Thiên Thu - Bùi Đức Vinh - Nguyễn Hoa - Hoàng Nguyệt Xứ - Lê Hưng Tiến - Phạm Xuân Trường - Ngô Công Tấn - Từ Hoài Tấn - Văn Lợi - Quang Tuyến - Nguyễn Loan - Lê Vĩnh Thái - Vĩnh Nguyên - Hoàng Ngọc Quý

  • HUỲNH THÚY KIỀUHọ và tên: Huỳnh Thuý Kiều; Cầm tinh con Ngựa - 1978Bút danh: Hoa Đồng Nội. Nơi làm việc: Nhà xuất bản Phương Đông tỉnh Cà MauĐã có tuỳ bút, tản văn, đặc biệt là thơ đăng trên các báo Trung ương và địa phương. http://huynhthuykieu.vnweblogs.com

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOSinh năm: 1979Quê quán: Hà TĩnhTốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Khoa học HuếHiện là biên tập viên tạp chí Đà Nẵng ngày nayhttp://nguyenthianhdao.vnweblogs.com

  • Trần Thị Huê, sinh năm 1970 ở Hiền Ninh - Quảng Ninh - Quảng Bình. Năm 1997 xuất hiện lần đầu tiên trên tạp chí Nhật Lệ với chùm thơ 3 bài Chiều, Đợi, Cỏ xanh. 5 năm sau chị xuất bản tập thơ đầu tay Sóng vọng. Nhưng phải đợi đến những năm gần đây gương mặt thơ chị mới hiển lộ với những đường nét vụt hiện, gấp khúc. Cái - tôi - cá - thể đã làm giàu thêm mục đích và ý nghĩa sáng tạo nghệ thuật.

  • Bạch Diệp - Vi Thuỳ Linh - Phan Huyền Thư - Phùng Hà - Nguyễn Thị Hợi - Hồng Vinh - Đông Hà - Nguyễn Thị Thái - Hoàng Thị Thiều Anh - Đinh Thị Như Thuý - Nguyễn Thị Thuý Ngoan - Thạch Thảo

  • ...Vắt qua bầu trời mờ cánh chim nhỏVắt ngang dòng sông trổ nụ hồngVắt ngực tình em bay hương cỏVắt suốt mùa đợi một ngóng trông...

  • Nguyễn Trọng Tạo - Tường Phong - Trần Áng Sơn - Nguyễn Thánh Ngã - Ngô Hữu Đoàn - Nguyên Quân - Nguyễn Thành Nhân

  • HÀ NHẬTLTS: Lớp học sinh niên khóa 1964-1967 ở Trường Cấp 3 Lệ Thủy, Quảng Bình 40 năm trước đã sinh ra hàng chục nhà thơ, trong đó có những người đã thành danh như Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh, Hải Kỳ, Đỗ Hoàng, Lê Đình Ty... Công lao bồi dưỡng, vun đắp nên những nhà thơ đó là hai thầy giáo dạy văn cực giỏi: Lương Duy Cán và Phan Ngọc Thu.