Thơ Cao Bá Quát viết về Huế

14:46 23/06/2009
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

Bút tích chữ Hán của Cao Bá Quát (Ảnh TL)

Trong cuộc đời "bảy nổi ba chìm" của mình, Cao Bá Quát là người ngoài Bắc rất có "duyên nợ" với Huế từ nhiều phương diện: ông đứng cùng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (1819-1870) và Tuy Lý Vương Miên Trịnh (1820-1897) - hai nhà thơ, con vua Minh Mạng - trong những câu ngợi ca: Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán - Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường; ông từng khăn gói vào nam đi thi, từng làm quan triều đình nhà Nguyễn, từng bị giam trong các nhà ngục ở Huế, và có những khi đi đến các đồn lính tại xứ này theo hình thức "quân tiền hiệu lực". (Trong thời gian làm sơ khảo ở trường Thừa Thiên, thấy những thí sinh giỏi nhưng bài thi phạm tên huý của nhà vua, Cao Bá Quát đã cùng bạn dùng muội đèn chữa cho những bài ấy khỏi hỏng, việc phát giác, ông bị kết tội, phải giam, bị tra tấn, cuối cùng được lập công chuộc tội bằng cách đi phục dịch ở các đồn lính - gọi là "quân tiền hiệu lực" - hay theo phái bộ xuất dương đi giao thiệp với nước ngoài gọi là "dương trình hiệu lực" hoặc "xuất dương hiệu lực").

Cũng vì vậy, nhà thơ có khá nhiều dịp để viết về Huế (Xin lưu ý: thơ văn Cao Bá Quát chủ yếu viết bằng chữ Hán, còn thơ ông viết về Huế thì đều bằng chữ Hán
Thơ Cao Bá Quát viết về Huế sớm nhất là bài Thôn cư vãn cảnh (Cảnh chiều ở thôn quê), có phần chắc là viết trên đường ông đi thi hội, lần đầu tiên đặt chân đến xứ này - chưa phải kinh đô Huế, mà là một làng quê nào gần đó. Ta sẽ thấy ở đây một khung cảnh yên ổn, thanh bình, thơ mộng, làm nhà thơ sảng khoái và đỡ được nhiều mệt mỏi sau những chặng đường dài (và nỗi lo thi cử?):
            Ly ngoại nhân yên, trực ngoại âm,
            Thung ca thanh yết, trạo ca thâm.
            Truy du khách chí phân thư khán,
            Tức sự thi thành bão tất ngâm.
            Hương thuỷ mộ trào sinh thiển lại,
            Trản sơn hồi chiếu đạm không lâm.
            Huân phong đa dữ nhàn phương tiện,
            Xuy khởi cô liêm nhất bán tâm.
            (Ngoài bờ dâu có khói bếp, ngoài rặng tre có bóng râm.
            Tiếng hát giã gạo vừa dứt, tiếng hò chèo đò lại văng vẳng.
            Có khách xa đến chơi, chia sách cùng đọc,
            Làm xong thơ tức sự bó gối ngồi ngâm.
            Nước thuỷ triều ở sông Hương xuống, bãi cát ngập nông.
            Cảnh rừng vắng trên Hòn Chén, nắng chiều đã lạt.
            Gió nồm thường giúp người ta mọi sự thoải mái,
            Đã thổi cuốn bức rèm treo làm cho lòng ta cũng nhẹ đi một nửa).

Tuy nhiên Cao Bá Quát làm thơ về Huế nhiều nhất là vào thời kỳ ông được tha và được vào làm ở Viện Hàn Lâm của triều đình Huế. Thật sảng khoái là bài Thập ngũ dạ đại phong (đêm rằng gió lớn). Thiên nhiên vùng ven biển ở đây, trong một đêm sóng to gió mạnh, làm cho nhà thơ hừng hực khí thế, trước cuồng vọng xâm lược của đế quốc phương Tây:
            Nhất dạ trường phong hám hải đài,
            Thuận An môn ngoại lãng như lôi.
            Thiên thu thượng tác Chu lang khí,
            Yếu đả Hồng di cự hạm hồi.
            (Suốt đêm gió lộng làm rung động cả toà hải đài,
            Ngoài cửa Thuận An tiếng sóng gầm như sấm.
            Hùng khí của chàng họ Chu nghìn thuở vẫn còn bốc lên
            Như muốn đánh cho cái tầu lớn của bọn Hồng mao phải lui trở lại) *

Riêng với sông Hương, Cao Bá Quát đã viết đến mười bốn bài, dưới đầu đề Hương giang tạp vịnh (Những bài làm khi chơi sông Hương), trong đó đặc sắc nhất là bài này:
            Nhất đới duyên giang giáp đệ hùng,
            Ngũ quân khai phủ chiếu tây đông.
            Vinh khổ tứ thập dư niên sự,
            Chỉ hữu hà hoa tự cựu hồng.
            (Một dải ven sông lâu đài hùng tráng,
            Nào trại năm quân, nào dinh đốc phủ, đông tây đối diện nhau.
            Việc đời hơn bốn mươi năm có lúc thịnh lúc suy,
            Chỉ có những đoá hoa sen vẫn đỏ thắm như ngày trước.
Hoàng Tạo đã dịch thành thơ khá hay bài này:
            Ven sông lầu gác trập trùng,
            Đồn quân, dinh tướng tây đông mấy toà.
            Thịnh suy bốn chục năm qua,
            Riêng sen vẫn giữ màu hoa đỏ hồng
.

Vẫn có khí thế của một xứ sở chuẩn bị đối phó với âm mưu xâm lược của kẻ địch như những bài khác, nhưng kèm theo là một triết lý hết sức giản dị mà thâm thuý: việc đời không ngừng thay đổi, chỉ có thiên nhiên là vĩnh cửu! Và đây là thiên nhiên xứ Huế!

Hiểu quá Hương giang (Buổi sớm qua sông Hương) của Cao Bá Quát cũng làm một bài thơ độc đáo: có núi non, ruộng đồng, chim chóc, có thuyền đò, có tiếng hò, có sông nước, và mang nặng ưu tư của nhà thơ trước cuộc đời. Câu thơ thứ hai (Trường giang như kiếm lập thanh thiên) lâu nay rất hay được nhắc đến, như là cách nhìn có một không hai về dòng sông này. Các dòng sông của xứ "Huế, đẹp và thơ" ấy, từ bao đời nay, cho dù có đôi khi dữ dội bởi những mùa nước lớn, vẫn lưu trong người đời một hình ảnh hiền lành, êm đềm, thơ mộng và hay được ví với người thiếu nữ. Như là: Êm êm dòng nước Hương giang chảy hoặc Hương giang: cô gái mỹ miều (Nam Trân), rồi: Lai láng niềm trăng tuôn dạ nước - Ngập tràn sông trắng gợi bâng khuâng (Thúc Tề)... Với nhà thơ Nguyễn Bính, nó lại là mái tóc dài của một cung nữ... Chưa có ai như Cao Bá Quát, coi sông Hương là một thứ vũ khí:
            Trường giang như kiếm lập thanh thiên
            (Con sông dài như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh)

Giáo sư Vũ Khiêu, trong Lời giới thiệu quyển sách được làm rất công phu Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (Nhà xuất bản Văn học, 1970) có suy luận như sau về câu thơ này: "Gươm của ai? Gươm của cái triều đình hủ bại đang treo trên cổ nhân dân, hay một thanh gươm nào khác muốn vung lên giữa trời xanh nước Việt?" (tr, 16). Căn cứ vào văn cảnh của câu thơ, với những hình ảnh, ngôn từ, âm điệu, cảm xúc... của bài thơ, chúng ta có thể nghĩ: nếu đó là lưỡi gươm của triều đình nhà Nguyễn đe dọa dân chúng, thì Cao Bá Quát - người đã từng không tiếc lời châm chọc, đã kích những xấu xa, thối nát của vua quan triều đình - khó mà giữ được giọng thơ êm đềm, man mác, và "hiền lành" đến thế!

Ta hãy đọc lại cả bài thơ này:
                  HIỂU QUÁ HƯƠNG GIANG
            Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền,
            Trường giang như kiếm lập thanh thiên.
            Sở hàng ngư đĩnh liên thanh trạo,
            Lưỡng cá sa cầm khuất túc miên.
            Trần lộ du du song quyện nhãn,
            Viễn trình hạo hạo nhất qui tiên.
            Kiều đầu xa mã phi ngô sự,
            Phả ái nam phong giác chẩm biền.

                        BUỔI SÁNG, QUA SÔNG HƯƠNG
            Muôn dãy núi như chạy vòng quanh khu ruộng xanh mướt,
            Con sông dài như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh.
            Mấy dãy thuyền chài không ngớt tiếng hò khoan đưa mái chèo,
            Hai con chim trên bãi đứng co chân ngủ.
            Đường trần dằng dặc, đôi con mắt đã mỏi,
            Tình xa man mác, một roi ngựa trở về.
            Xe ngựa qua cầu, không phải là việc ta nghĩ đến,
            Chỉ thích trước luồng gió nam, thảnh thơi nằm gối lên chiếc gối sừng.

Chúng tôi coi đây là một trong những bài thơ hay nhất của Cao Bá Quát.
Trong những dòng đơn sơ này, chưa thể nói kỹ, nói hết những gì nhà thơ họ Cao viết về Huế. Thơ ông bị triều đình nhà Nguyễn hủy hoại nhiều; số còn lại thất lạc không ít; số hiện lưu giữ được cũng chưa dịch thuật, chú giải đầy đủ. Tuy nhiên, chỉ với bấy nhiêu cũng có thể thấy Huế đã hấp dẫn Cao Bá Quát đến thế nào, cũng có thể thấy xứ này lại hiện ra với những dáng vẻ đặc biệt dưới con mắt một nhà thơ, cũng có thể thấy một phần con người và văn chương Cao Bá Quát - một bậc trượng phu, một danh nhân của đất nước vậy.

H.D
(178/12-03)

----------------------------
* Hải đài: đài ven biển. Đời vua Tự Đức, ở cửa bể Thuận An có dựng những toà nhà kiên cố để phòng quân giặc đánh vào kinh đô Huế
Chàng họ Chu: chỉ Chu Du đời Tam quốc đã lợi dụng gió đông nam đánh tan quân Tào Tháo ở Xích Bích.
Hồng mao: chỉ nước Anh, hồi ấy gọi là nước Hồng mao, vì râu tóc người Anh thường hung hung đỏ.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.