NGÔ MINH
Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.
Đối đáp nghĩa là thơ thù tác, thơ ứng khẩu. Thế mà in ra thành sách lại nhiều người thích. Nhà thơ chào bán trên mạng FB, chỉ mới nửa tháng đã có gần trăm người gửi tiền về mua. Ông Đoàn Duy Tăng, một người Quảng Trị sống ở Nha Trang đã U80 vẫn đặt mua thơ tình Quân vương & Thiếp, thơ chưa về kịp đã sốt sắng gửi thư ra nhờ Ngô Minh nhắc. Nhà văn Phạm Thị Cúc (vợ nhà văn Tô Nhuận Vỹ) đọc Quân vương & Thiếp cũng xuýt xoa khen. Nhà thơ Mai Văn Hoan cho biết chỉ một tháng “quảng cáo” trên FB đã gần thu hồi được vốn bỏ ra in. Tại sao một tập thơ tình đối đáp của hai anh chị đóng giả Quân vương và Thiếp lại thu hút người yêu thơ đến vậy?
Câu chuyện bất đầu từ trò “chơi thơ” trên mạng. Cuối năm 2007 đầu 2008, Mai Văn Hoan bắt đầu chơi blog, sau khi được nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo thiết kế cho cái blog maivanhoan.vnweblogs.com, rồi Ngô Minh hướng dẫn cho cách chơi, thế là chàng say blog. Trên mạng ảo ấy nhà thơ gặp một nàng thơ bút hiệu là Lãng Du.Blog Lãng Du, đã in rất nhiều thơ của nàng. Ngô Minh cũng quen nàng qua mạng, biết được nàng tên thật là Cẩm Hà (Nguyễn Cẩm Hà), một cô gái xinh đẹp, quê Quảng Trạch, Quảng Bình, từng học ở Huế, rồi đi du học ở Nga về, đang dạy tiếng Anh ở một trường phổ thông trung học ở Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh. Nàng là người lãng mạn, yêu thơ, có tài làm thơ (từng dịch thơ tiếng Nga ra tiếng Việt). Người đời thường bảo trai gái kết nhau vì “trai tài gái sắc”. Ở đây không chỉ gái sắc mà gái còn có tài đối đáp văn thơ nhanh nhạy. Thế là hai người có những vần thơ đối đáp tới mấy tháng ròng, tập trung vào một chủ đề tình yêu giữa Quân vương - Thiếp, Thiếp - Quân Vương. Cái không gian sinh ra sự đối đáp này chính là Huế. Huế sinh cảnh sinh tình. Huế là Kinh đô triều Nguyễn với bao đời Quân vương và Thiếp trị vì, từng đam mê và đau khổ. Nhà thơ thì đang ở Huế. Lãng Du thì đã sống ở Huế, nên Huế trở thành “nơi hò hẹn”: Quân vương: “Nếu muốn làm hoàng hậu/ Em hãy về Cố đô/ Rừng phong xa xôi lắm/ Thảm là vàng giấc mơ”. Thiếp: “Cố Đô còn chờ đợi/ Đón ta về hay không?/ Ta rong chơi mải miết/ Bây giờ còn hư không…/ Vương miện thì rơi rụng/ Xiêm y gió bay rồi/ Còn trái tim gầy guộc/ Đập si cuồng mà thôi…”.
Đó là những bài thơ đối đáp ban đầu của cuộc chơi. Xem ra rất nồng nàn, sắc sảo. Những thi ảnh thơ của Thiếp rất ám ảnh: “Ta rong chơi mải miết/ Bây giờ còn hư không… Còn trái tim gầy guộc/ Đập si cuồng mà thôi…”. Rong chơi đến còn… hư không, là tận cùng của rong chơi. Thơ như thế mới gọi được thơ từ trái tim Quân vương chứ. Thế là cuộc chơi “đối đáp thơ” trên mạng ngày càng dào dạt. Ngày nào cũng có xướng, có họa. Mà hình như Thiếp xướng trước thì phải. Cái ảo đã thành cái thật trong trái tim hai người. Rồi thành cái thật nữa là tập thơ tôi cầm trên tay đây và sự yêu mến của nhiều độc giả.
Tôi cho rằng thơ cũng là sự chơi! Có chơi mới có thơ hay! Hoàng Phủ Ngọc Tường có lần cho rằng: “Tản Đà là tay chơi “Chơi cho biết mặt sơn hà - Cho sơn hà biết đâu là mặt chơi”; vừa đánh giặc xong,Thánh Gióng bay về trời, đó là sự chơi; rồi Quan họ Hội Lim, rượu Làng Vân, tranh Làng Hồ… đều là sự chơi tài tử ở đời. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… đều là người chơi nổi tiếng đương thời. Còn Nguyễn Công Trứ thì… tay chơi hết nói! Hết “chơi Đại thần” thì “chơi lính trơn”. Chán lính trơn lại chơi lên Đại Thần. “Lênh đênh một chiếc thuyền nan/ Một cô gái Huế, một quan đại thần…”. Trịnh Công Sơn thì rong chơi suốt mùa mà để lại cả gia tài ca khúc vô giá”. Mai Văn Hoan đã nhiều lần “chơi” thơ như thế. Một lần nhận được thơ và thư của một người đẹp ở Quy Nhơn ký là “Quy Nhơn bé nhỏ”. Thế là chàng trả lời bằng thơ. Mấy chục bài thơ tình nóng bỏng trả lời cho “Quy Nhơn bé nhỏ” ấy sau này Mai Văn Hoan tập hợp trong tập thơ Hồi âm (1999). Bài nào cũng có lời dẫn kể về sự tích ra đời. Làm thơ tặng rất đậm đà như vậy, nhưng nhà thơ vẫn chưa gặp nàng, nên mong được thấy dung nhan của nàng như thế nào. Một lần Ngô Minh đi làm báo ở Quy Nhơn, Mai Văn Hoan nhờ tìm nàng. Tôi tìm đến và thảng thốt trước người đẹp có tên là Thanh Hiền, đẹp như hoa hậu: “Hiền xinh là mắt là môi/ Qua eo Nín Thở đất trời dại khôn/ Giờ anh như đứa mất hồn/ Gặp ai cũng ngỡ Quy Nhơn gặp mình…” (NM).
Trở lại với câu chuyện Quân vương & Thiếp. Cái tình ảo ấy cũng trải qua nhiều cung bậc: yêu thương, nhưng nhớ, cô đơn, giận hờn, trách móc, thanh minh, giãi bày… Và cả ngôn ngữ xưng hô khi thắm thiết, khi lịch lãm, ngôn ngữ chốn cung đình… Với những thể thơ biến hóa: thơ 5 chữ, thơ tự do, thơ bảy chữ, thơ Đường… Những cung bậc tình cảm và cách thể hiện ấy đã tạo nên cuộc “đối đáp” sinh động, hấp dẫn, làm cho người đọc không bị nhàm chán. Đây là sự trách hờn của Thiếp:
Quân vương ơi, Ngài quên Thiếp thật rồi
Vương miện hoa vàng Thiếp treo ngoài bờ dậu
Xiêm áo tẩm hương phong trần ong bướm đậu
Giận Quân vương nên ong bướm cũng đi rồi
Còn đây là thanh minh của Quân vương:
Thiết triều xong thì đã muộn mất rồi!
Nhìn vương miện biết Khanh vừa quay gót
Liễu rũ bên thành, oanh không còn hót
Sương chiều buông thấm lạnh cả Hoàng cung
Còn đây là chờ đợi của Thiếp: “Vườn ngự đêm nay nở tròn hương trinh nữ/ Biết ta đợi người cây cỏ cũng đứng im…/ Gió vô tình lụi tắt giữa chừng xuân!...” Và giải trình của Quân Vương: “Để cho Khanh chờ mãi, Trẫm sao đành/ Thà thoái vị mà bên nhau mãi mãi!...” Cuộc tình cứ như con sông lũ cuộn chảy theo hai bờ nồng đượm. Chùm thơ viết theo thể Đường luật của Thiếp làm cho Quân vương bối rối. Hãy nghe Mai Văn Hoan giãi bày: “Tôi vốn không thông thạo thơ Đường luật, nhưng do nàng gửi cho tôi đến 8 bài thơ Đường luật của nàng nên tôi cũng thử “múa bút” xem sao. Âu cũng là “điếc không sợ súng”. Nhưng tình cảm trái tim đã dắt con chữ đi đúng lộ trình của nó. Ta hãy đọc bài thơ Đường luật (thất ngôn bát cú) thứ 8 của Lãng Du để biết nàng rành thơ như thế nào. Và đây cũng là bài thơ khép lại cuộc tình hi hữu:
Huyễn hoặc đôi dòng nước ảo hư
Chiều xưa Bến Ngự chút hương dư
Khi hồn sương phủ người xa khuất
Lúc dạ tơ vương bóng tuyệt mù
Vĩ Dạ trăng soi tràn trống trải
Nam Giao gió thoảng ngút tương tư
Ai người năm trước về qua đó
Đợi mãi bên đời bước lãng du
Tôi đã đọc những bài thơ họa này từ bảy tám năm trước. Bây giờ in thành sách, đọc lại vẫn thấy xúc động, nhất là với thơ của Lãng Du Cẩm Hà. Xin gửi lời chia vui đến nàng.
Thế là Quân vương & Thiếp đùa mà hóa thật. Ảo mà hóa thật. Câu chuyện “đối đáp” thơ chơi ấy đã thành một giai thoại văn chương đẹp và nở hoa trái cho người. Tôi thường nói với mọi người: Mai Văn Hoan là nhà thơ của phái đẹp! Mai Văn Hoan làm thơ “tán gái” mà thành danh! Đây là một minh chứng.
Huế, 1/7/2015
N.M
(SDB18/09-15)
NGUYỄN HIỆP
Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?
LƯƠNG THÌN
Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.
VƯƠNG TRỌNG
Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).
NHỤY NGUYÊN
Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.
LÊ THỊ BÍCH HỒNG
Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).
THÁI KIM LAN
Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
HOÀI NAM
Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.
ĐỖ LAI THÚY
Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.
TRẦN NHUẬN MINH
Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).
YẾN THANH
“vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
ngọn lửa phù du mách bảo
vui buồn tương hợp cùng đau”
(Hồ Thế Hà)
Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.
NGÔ THẢO
Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.
Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).
NGÔ ĐÌNH HẢI
Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.
DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN
Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.
NGUYỄN HIỆP
Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.
Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.
PHẠM PHÚ PHONG
Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.
NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH
Đọc truyện ngắn Hồng Nhu, tôi có cảm tưởng như mình đang lạc vào trong một thế giới huyền thoại, thế giới của những lễ hội, phong tục, tập quán xưa huyền bí mà có thật của người dân đầm phá Tam Giang.
Bằng sự tinh tế và thâm trầm của người từng trải, Nguyễn Đình Tú đưa tới góc nhìn đa dạng về người trẻ trong tập truyện ngắn "Thế gian màu gì".