Thêm vài tư liệu về chiếu bóng ở Huế ngày xưa

14:40 02/11/2017

HOÀI VŨ

* Vài nét về việc du nhập điện ảnh vào Huế
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) năm 2016 có đăng bài “Vài nét về lịch sử nhiếp ảnh và điện ảnh ở Thừa Thiên Huế” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa cung cấp nhiều tư liệu rất quý.

Rạp chiếu bóng Hưng Đạo ngày xưa (nay là Nhà Văn hóa Thành phố Huế)

Bài viết xin lược dẫn:

Ngày 28/12/1895, hai anh em Auguste Lumière và Louis Lumière đã tổ chức chiếu phim ở nhà hầm quán Grand Café, số 14 đại lộ Capucines, Paris, được chọn làm ngày khai sinh của điện ảnh thế giới. Điều thú vị là chưa đầy một năm sau đó, năm 1896, hai anh em người Pháp này đã đến Việt Nam và quay cuốn phim “Le Village de Namo - Panorama pris d’une chaise à porteurs”. Năm 1898, ông D’Arc đã tổ chức chiếu “hát hình máy” có bán vé thu tiền tại Chợ Lớn, đăng quảng cáo rộng rãi trên tuần báo Nam Kỳ số 50, ngày 6/10/1898. Năm 1899, Gabriel Veyre, một học viên của hai người này, đã đến Hà Nội tổ chức buổi chiếu phim miễn phí. Cũng năm 1899, một đoạn tin ngắn khác của tuần báo Nam Kỳ số 83, ra ngày 1/6/1899 cho biết: “Ông Léopold Bernard (người tổ chức “cuộc hát hình máy” đăng ở số báo 81 trước đó) còn ở lại Sài Gòn một ít bữa nữa mà thôi, rồi người sẽ ra Kinh đô Huế vì triều đình có đòi người ra đặng xem cuộc hát hình.”

Những năm 1917 - 1918, nhà nhiếp ảnh kiêm chiếu phim Tétart và nhà quay phim Brun đã thực hiện quay 20 phim, có 16 phim làm tại Việt Nam, trong đó có 4 phim làm về Huế và một phim liên quan đến Huế và Hà Nội, gồm: Nam Giao, quay lễ tế Nam Giao; Lăng tẩm ở Huế giới thiệu các lăng vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức; Huế, kinh đô của triều đình Annam giới thiệu Huế với hình ảnh của sông Phủ Cam (sông An Cựu), sông Hương, cung điện, Hoàng thành, khu người Âu và lăng tẩm các vua; Sinh hoạt trong cung đình Huế giới thiệu sinh hoạt của hoàng cung, những buổi thiết triều của vua Khải Định, các vị thượng thư và một số nghi lễ cung đình…

Lúc bấy giờ, chủ khách sạn Morin mở rạp chiếu bóng Cinéma Morin, là cơ sở chiếu bóng sang trọng đầu tiên ở Huế. Morin còn nổi tiếng trong giới điện ảnh thế giới với sự kiện là nơi danh hài Charlot (Charlie Chaplin) và vợ là Paulette Godard chọn đến hưởng tuần trăng mật năm 1936. Phim được phổ biến trong thập niên 1920 chủ yếu là phim Pháp. Từ năm 1923, lần đầu tiên có phim do người Việt Nam thực hiện thông qua Công ty Phim và Chiếu bóng Đông Dương (IFEC) với phim Kim Vân Kiều. Năm 1925, ông Nguyễn Lan Hương, chủ tiệm ảnh Hương Ký ở Hà Nội, đã mời một chuyên viên người Pháp đến Huế thực hiện hai bộ phim tài liệu: phim Ninh Lăng quay cảnh đám tang vua Khải Định, phim Tấn tôn đức Bảo Đại quay lễ lên ngôi của vua Bảo Đại.

Sau 1930, điện ảnh đã được phổ cập tương đối rộng rãi ở thành phố Huế. Phim Lễ tấn tôn Thái tử Bảo Long đã ra đời năm 1939. Một số gia đình thượng lưu đã sắm máy quay phim, máy chiếu phim, chiếu một số phim Huế Thơ, Huế Mộng, phim hề Charlot, phim Tarzan

Sau tháng 7/1951, ông Nguyễn Văn Yến tiếp nhận khách sạn Morin, rạp chiếu bóng Morin chuyển thành rạp Nguyễn Văn Yến; rạp Richard sau đó cũng đổi chủ và chuyển thành rạp chiếu bóng Việt Nam Phim.

Rạp xi nê Đông Ba (rạp Tân Tân cũ)


Về sau, trên đường Trần Hưng Đạo có thêm rạp chiếu bóng Tân Tân; bên kia cầu Gia Hội, trên đường Gia Hội (nay là Chi Lăng) có hai rạp chiếu bóng Châu Tinh, Gia Hội (về sau đổi thành Khải Hoàn, rồi Hoàn Mỹ); trong khu vực Thành Nội, tại đường Lục Bộ (nay là Nguyễn Chí Diểu), Hội Hướng đạo có rạp Lửa Hồng, chủ yếu dành cho học sinh và thanh thiếu nhi. Khi rạp Việt Nam Phim và rạp Nguyễn Văn Yến đóng cửa khoảng năm 1957, thì Tân Tân trở thành rạp chiếu bóng thu hút khách nhất. Đầu thập niên 1960, trên đường Trần Hưng Đạo có thêm rạp Hưng Đạo với quy mô 999 ghế. Mỗi phim thường chiếu trong một tuần, khách mua vé được phát kèm theo tờ “progamme” (chương trình) được in ấn và trình bày đẹp, có tóm tắt nội dung phim, ảnh các tài tử, ngày giờ chiếu của rạp. Trước mỗi rạp đều có pa-nô lớn vẽ cảnh phim; có phim còn dựng thêm pa-nô lớn cắt hình những diễn viên nổi tiếng, đặt trước tiền sảnh để tạo sức hấp dẫn. Vì vậy, thời kỳ này ở Huế xuất hiện nhiều họa sĩ chuyên vẽ tranh quảng cáo ciné mà nổi tiếng nhất là họa sĩ Lê Vinh.

Hoạt động chiếu bóng phát triển, nhưng các hãng làm phim đều đặt tại Sài Gòn, Huế chỉ đôi lúc được chọn để quay một số phim; tiêu biểu là loạt phim có tính phóng sự, thực hiện trong giai đoạn 1958 - 1960 như Non nước Hương Bình, Múa Tứ linh, Điệu hò miền Trung… Phim Hồi chuông Thiên Mụ do hãng phim Tân Việt thực hiện năm 1957, phát hành năm 1959, dựa theo tiểu thuyết lịch sử Hồi chuông Thiên Mụ của Phan Trần Chúc.

* Thêm vài tư liệu về chiếu bóng ở Huế xưa

Mới đây, đọc lại một số báo Tràng An Báo (xuất bản ở Huế 1935 - 1945), chúng tôi bắt gặp một số thông tin thú vị, xin được giới thiệu:
 

Tin buổi chiếu bóng ở Hội Hồng Thập tự hôm 12/6/1937

Trên Tràng An Báo số ra ngày 18/6/1937, có đưa tin: “Một buổi chiều bóng do Hội Hồng Thập tự Huế tổ chức”, nội dung như sau: “Hội Hồng Thập tự Trung kỳ (Croix Rouge de l’Annam) hồi năm giờ chiều thứ bảy 12 Juin, vừa rồi có tổ chức một buổi chiếu bóng hai phim ảnh truyền bá vệ sinh tại rạp một Hoàng Thượng, quan Khâm sứ Trung kỳ, các quan Thượng thư và nhiều quý quan bên Bảo hộ có tới dự.

Đầu tiên Bác sĩ Lemoine đứng lên “giới thiệu” hai phim ảnh ấy; đại khái ông nói hai phim ảnh ấy là do bà Khâm sứ Graffeuil mang ở Pháp sang. Một phim dẫn cách tổ chức chữa và đề phòng bệnh sốt rét (paludisme), một phim về bệnh lao (tuberculose).

Đèn vừa tắt, trên màn ảnh chiếu một buổi hội
họp trên trường vận động, hàng nghìn người tới dự, rồi đến mấy hàng chữ dẫn rằng: Thưa các ngài, mỗi năm về vùng thung lũng lắm đầm ao (bên Mỹ) số người thiệt mạng về bệnh sốt rét gấp ba, gấp bốn lần số khán giả tới dự ở trường vận động như các ngài vừa thấy trên màn ảnh. Vậy ta phải đề phòng bệnh sốt rét. Rồi trên màn ảnh dẫn cho ta biết rằng: con muỗi gây ra bệnh sốt rét (anophèle) khi đốt người ta thời ngược đầu xuống…

Phim thứ hai dẫn về cách đề phòng bệnh lao. Một người cha ho lao, con thường dễ lây lắm.

Theo như phim ảnh ấy, thời một người đã bị bệnh lao, trông không đến nỗi gầy còm cho lắm, mà lúc chiếu điện (radiographie) một bên phổi đã bị vi trùng lao làm hư…”.

Trên Tràng An Báo ra ngày 11/7/1939, có bài viết “Người Huế hoan nghênh ông Daladier”, do tác giả Thiếu Lăng tường thuật, nội dung mô tả cảnh chen lấn khi đi xem phim hồi đó: “Hoan nghênh như thế kể cũng có hơi chậm, nhưng có dịp nào khác nữa đâu, nếu hôm thứ năm vừa rồi nhà chớp bóng Morin không cho chớp hai phim thời sự “Cuộc hành trình của thủ tướng Daladier ở Bắc Phi Châu” và “Chúng ta được tự vệ ra làm sao?” “Le voyage de M. le Président Daladier en Afrique du Nord” et - “Comment sommes-nous défendus”. Chớp bởi có lời yêu cầu của nhà chức trách ở Huế.

Một tờ thông tư thường chạy quanh trong các công sở vào một ngày hôm trước. Tờ giấy mỏng mảnh ấy được chuyền tay nhau, người này sang người khác... lặng lẽ.

Thế rồi, 8 giờ tối hôm qua, người ở mọi nơi, ở Bến Ngự, ở Ga kéo xuống; ở Lò Rèn, ở An Cựu kéo ra; ở Đập Đá, ở Chợ Cống kéo lên, ở phố và trong thành kéo qua, đổ dồn về một nơi: nhà chớp bóng Morin. Tấp nập như ở một thành phố bên Pháp khi phát mặt nạ chống hơi ngạt. Mà chỉ mới 8 giờ thôi.

Trước rạp chớp bóng ấy, người đứng dày đặc ở hai bờ hè, tràn ra cả giữa đường. Ở các nẻo, vẫn còn người dồn đến, đi bộ, đi xe kéo, xe đạp và xe hơi…

Ở sát cửa nhà chớp bóng, một viên Sen đầm, mấy viên đội và lính cảnh sát đứng mà cửa vẫn đóng bít. Sức chen lấn của người ngoài đẩy vào, đẩy vào, như muốn xiêu vỡ các cánh cửa.

Người ta cũng đã nghĩ đến sự mở cửa cho công chúng vào nhưng mà với số người đông đảo ấy mà tràn vào thì quá hơn đê vỡ, cản ngăn sao nổi. Họ chỉ mở hai cánh cửa hẹp hai bên để vào từng người một.

Chen lấn, chen lấn. Người nào yếu thì chỉ biết lép mình tùy lượn sóng người ở sau xô tới, và nhận được những cùi tay của kẻ khác vào hông.

Vào cửa nhà chớp bóng mà phải vất vả hơn đi ba ngày đường để kiếm cơm, người ta cũng lao mình vào đám đông để được chen lấn, trước khi được vào xem.

Nhưng mà, đến một lúc người ta không thể chen được nữa vì ở trong đã chật như nêm. Những người vào sau, hét lớn: “Tôi có vé rồi! tôi có vé rồi!” Mặc, đã chật quá, không một chỗ rỗng để chen chân vào đâu được!

Tuy đã vào chật một rạp chớp bóng mà người đứng ngoài vẫn như không mất đi bao nhiêu đối với lúc cửa chưa mở”.

 

Ảnh chụp bản tin trên Tràng An Báo số 469

Một thông tin đặc biệt quý, trên Tràng An Báo số 469, ra ngày 7/11/1939, có bản tin “Huế, đẹp…”, đưa thông tin liên quan đến bộ phim màu về Huế: “Đó là cái tên một cuốn film bằng màu do ông bạn Henri Richard quay ra để diễn tả những cái đẹp ở Kinh đô chúng ta.

Film ấy sẽ chiếu lần đầu tiên ở Huế, tại Viện Dân biểu, ngày 12 Novembre, lấy tiền giúp Hội La Fraternelle Franco Indochinoise.

Buổi chiếu ấy sẽ có Hoàng đế và Hoàng hậu và quan Khâm sứ Graffeuil chủ tọa.

Chúng tôi sẽ nói đến cái đẹp cái hay của cuốn film ấy, và tài đặc biệt của ông Nguyễn Henri Richard.

Từ hôm 12 Novembre, đến 16 Novembre, tại Viện Dân biểu, sẽ luôn luôn chiếu film: Huế đẹp và thơ…

Các bạn nên đến xem cho biết những tài nghệ của một người yêu nghệ thuật đối với giang sơn và cảnh vật Kinh đô”…


H.V  
(SHSDB26/09-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.

  • VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.