HOÀI VŨ
* Vài nét về việc du nhập điện ảnh vào Huế
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) năm 2016 có đăng bài “Vài nét về lịch sử nhiếp ảnh và điện ảnh ở Thừa Thiên Huế” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa cung cấp nhiều tư liệu rất quý.
Rạp chiếu bóng Hưng Đạo ngày xưa (nay là Nhà Văn hóa Thành phố Huế)
Bài viết xin lược dẫn:
Ngày 28/12/1895, hai anh em Auguste Lumière và Louis Lumière đã tổ chức chiếu phim ở nhà hầm quán Grand Café, số 14 đại lộ Capucines, Paris, được chọn làm ngày khai sinh của điện ảnh thế giới. Điều thú vị là chưa đầy một năm sau đó, năm 1896, hai anh em người Pháp này đã đến Việt Nam và quay cuốn phim “Le Village de Namo - Panorama pris d’une chaise à porteurs”. Năm 1898, ông D’Arc đã tổ chức chiếu “hát hình máy” có bán vé thu tiền tại Chợ Lớn, đăng quảng cáo rộng rãi trên tuần báo Nam Kỳ số 50, ngày 6/10/1898. Năm 1899, Gabriel Veyre, một học viên của hai người này, đã đến Hà Nội tổ chức buổi chiếu phim miễn phí. Cũng năm 1899, một đoạn tin ngắn khác của tuần báo Nam Kỳ số 83, ra ngày 1/6/1899 cho biết: “Ông Léopold Bernard (người tổ chức “cuộc hát hình máy” đăng ở số báo 81 trước đó) còn ở lại Sài Gòn một ít bữa nữa mà thôi, rồi người sẽ ra Kinh đô Huế vì triều đình có đòi người ra đặng xem cuộc hát hình.”
Những năm 1917 - 1918, nhà nhiếp ảnh kiêm chiếu phim Tétart và nhà quay phim Brun đã thực hiện quay 20 phim, có 16 phim làm tại Việt Nam, trong đó có 4 phim làm về Huế và một phim liên quan đến Huế và Hà Nội, gồm: Nam Giao, quay lễ tế Nam Giao; Lăng tẩm ở Huế giới thiệu các lăng vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức; Huế, kinh đô của triều đình Annam giới thiệu Huế với hình ảnh của sông Phủ Cam (sông An Cựu), sông Hương, cung điện, Hoàng thành, khu người Âu và lăng tẩm các vua; Sinh hoạt trong cung đình Huế giới thiệu sinh hoạt của hoàng cung, những buổi thiết triều của vua Khải Định, các vị thượng thư và một số nghi lễ cung đình…
Lúc bấy giờ, chủ khách sạn Morin mở rạp chiếu bóng Cinéma Morin, là cơ sở chiếu bóng sang trọng đầu tiên ở Huế. Morin còn nổi tiếng trong giới điện ảnh thế giới với sự kiện là nơi danh hài Charlot (Charlie Chaplin) và vợ là Paulette Godard chọn đến hưởng tuần trăng mật năm 1936. Phim được phổ biến trong thập niên 1920 chủ yếu là phim Pháp. Từ năm 1923, lần đầu tiên có phim do người Việt Nam thực hiện thông qua Công ty Phim và Chiếu bóng Đông Dương (IFEC) với phim Kim Vân Kiều. Năm 1925, ông Nguyễn Lan Hương, chủ tiệm ảnh Hương Ký ở Hà Nội, đã mời một chuyên viên người Pháp đến Huế thực hiện hai bộ phim tài liệu: phim Ninh Lăng quay cảnh đám tang vua Khải Định, phim Tấn tôn đức Bảo Đại quay lễ lên ngôi của vua Bảo Đại.
Sau 1930, điện ảnh đã được phổ cập tương đối rộng rãi ở thành phố Huế. Phim Lễ tấn tôn Thái tử Bảo Long đã ra đời năm 1939. Một số gia đình thượng lưu đã sắm máy quay phim, máy chiếu phim, chiếu một số phim Huế Thơ, Huế Mộng, phim hề Charlot, phim Tarzan…
Sau tháng 7/1951, ông Nguyễn Văn Yến tiếp nhận khách sạn Morin, rạp chiếu bóng Morin chuyển thành rạp Nguyễn Văn Yến; rạp Richard sau đó cũng đổi chủ và chuyển thành rạp chiếu bóng Việt Nam Phim.
![]() |
Rạp xi nê Đông Ba (rạp Tân Tân cũ) |
Về sau, trên đường Trần Hưng Đạo có thêm rạp chiếu bóng Tân Tân; bên kia cầu Gia Hội, trên đường Gia Hội (nay là Chi Lăng) có hai rạp chiếu bóng Châu Tinh, Gia Hội (về sau đổi thành Khải Hoàn, rồi Hoàn Mỹ); trong khu vực Thành Nội, tại đường Lục Bộ (nay là Nguyễn Chí Diểu), Hội Hướng đạo có rạp Lửa Hồng, chủ yếu dành cho học sinh và thanh thiếu nhi. Khi rạp Việt Nam Phim và rạp Nguyễn Văn Yến đóng cửa khoảng năm 1957, thì Tân Tân trở thành rạp chiếu bóng thu hút khách nhất. Đầu thập niên 1960, trên đường Trần Hưng Đạo có thêm rạp Hưng Đạo với quy mô 999 ghế. Mỗi phim thường chiếu trong một tuần, khách mua vé được phát kèm theo tờ “progamme” (chương trình) được in ấn và trình bày đẹp, có tóm tắt nội dung phim, ảnh các tài tử, ngày giờ chiếu của rạp. Trước mỗi rạp đều có pa-nô lớn vẽ cảnh phim; có phim còn dựng thêm pa-nô lớn cắt hình những diễn viên nổi tiếng, đặt trước tiền sảnh để tạo sức hấp dẫn. Vì vậy, thời kỳ này ở Huế xuất hiện nhiều họa sĩ chuyên vẽ tranh quảng cáo ciné mà nổi tiếng nhất là họa sĩ Lê Vinh.
Hoạt động chiếu bóng phát triển, nhưng các hãng làm phim đều đặt tại Sài Gòn, Huế chỉ đôi lúc được chọn để quay một số phim; tiêu biểu là loạt phim có tính phóng sự, thực hiện trong giai đoạn 1958 - 1960 như Non nước Hương Bình, Múa Tứ linh, Điệu hò miền Trung… Phim Hồi chuông Thiên Mụ do hãng phim Tân Việt thực hiện năm 1957, phát hành năm 1959, dựa theo tiểu thuyết lịch sử Hồi chuông Thiên Mụ của Phan Trần Chúc.
* Thêm vài tư liệu về chiếu bóng ở Huế xưa
Mới đây, đọc lại một số báo Tràng An Báo (xuất bản ở Huế 1935 - 1945), chúng tôi bắt gặp một số thông tin thú vị, xin được giới thiệu:
![]() |
Tin buổi chiếu bóng ở Hội Hồng Thập tự hôm 12/6/1937 |
Trên Tràng An Báo số ra ngày 18/6/1937, có đưa tin: “Một buổi chiều bóng do Hội Hồng Thập tự Huế tổ chức”, nội dung như sau: “Hội Hồng Thập tự Trung kỳ (Croix Rouge de l’Annam) hồi năm giờ chiều thứ bảy 12 Juin, vừa rồi có tổ chức một buổi chiếu bóng hai phim ảnh truyền bá vệ sinh tại rạp một Hoàng Thượng, quan Khâm sứ Trung kỳ, các quan Thượng thư và nhiều quý quan bên Bảo hộ có tới dự.
Đầu tiên Bác sĩ Lemoine đứng lên “giới thiệu” hai phim ảnh ấy; đại khái ông nói hai phim ảnh ấy là do bà Khâm sứ Graffeuil mang ở Pháp sang. Một phim dẫn cách tổ chức chữa và đề phòng bệnh sốt rét (paludisme), một phim về bệnh lao (tuberculose).
Đèn vừa tắt, trên màn ảnh chiếu một buổi hội họp trên trường vận động, hàng nghìn người tới dự, rồi đến mấy hàng chữ dẫn rằng: Thưa các ngài, mỗi năm về vùng thung lũng lắm đầm ao (bên Mỹ) số người thiệt mạng về bệnh sốt rét gấp ba, gấp bốn lần số khán giả tới dự ở trường vận động như các ngài vừa thấy trên màn ảnh. Vậy ta phải đề phòng bệnh sốt rét. Rồi trên màn ảnh dẫn cho ta biết rằng: con muỗi gây ra bệnh sốt rét (anophèle) khi đốt người ta thời ngược đầu xuống…
Phim thứ hai dẫn về cách đề phòng bệnh lao. Một người cha ho lao, con thường dễ lây lắm.
Theo như phim ảnh ấy, thời một người đã bị bệnh lao, trông không đến nỗi gầy còm cho lắm, mà lúc chiếu điện (radiographie) một bên phổi đã bị vi trùng lao làm hư…”.
Trên Tràng An Báo ra ngày 11/7/1939, có bài viết “Người Huế hoan nghênh ông Daladier”, do tác giả Thiếu Lăng tường thuật, nội dung mô tả cảnh chen lấn khi đi xem phim hồi đó: “Hoan nghênh như thế kể cũng có hơi chậm, nhưng có dịp nào khác nữa đâu, nếu hôm thứ năm vừa rồi nhà chớp bóng Morin không cho chớp hai phim thời sự “Cuộc hành trình của thủ tướng Daladier ở Bắc Phi Châu” và “Chúng ta được tự vệ ra làm sao?” “Le voyage de M. le Président Daladier en Afrique du Nord” et - “Comment sommes-nous défendus”. Chớp bởi có lời yêu cầu của nhà chức trách ở Huế.
Một tờ thông tư thường chạy quanh trong các công sở vào một ngày hôm trước. Tờ giấy mỏng mảnh ấy được chuyền tay nhau, người này sang người khác... lặng lẽ.
Thế rồi, 8 giờ tối hôm qua, người ở mọi nơi, ở Bến Ngự, ở Ga kéo xuống; ở Lò Rèn, ở An Cựu kéo ra; ở Đập Đá, ở Chợ Cống kéo lên, ở phố và trong thành kéo qua, đổ dồn về một nơi: nhà chớp bóng Morin. Tấp nập như ở một thành phố bên Pháp khi phát mặt nạ chống hơi ngạt. Mà chỉ mới 8 giờ thôi.
Trước rạp chớp bóng ấy, người đứng dày đặc ở hai bờ hè, tràn ra cả giữa đường. Ở các nẻo, vẫn còn người dồn đến, đi bộ, đi xe kéo, xe đạp và xe hơi…
Ở sát cửa nhà chớp bóng, một viên Sen đầm, mấy viên đội và lính cảnh sát đứng mà cửa vẫn đóng bít. Sức chen lấn của người ngoài đẩy vào, đẩy vào, như muốn xiêu vỡ các cánh cửa.
Người ta cũng đã nghĩ đến sự mở cửa cho công chúng vào nhưng mà với số người đông đảo ấy mà tràn vào thì quá hơn đê vỡ, cản ngăn sao nổi. Họ chỉ mở hai cánh cửa hẹp hai bên để vào từng người một.
Chen lấn, chen lấn. Người nào yếu thì chỉ biết lép mình tùy lượn sóng người ở sau xô tới, và nhận được những cùi tay của kẻ khác vào hông.
Vào cửa nhà chớp bóng mà phải vất vả hơn đi ba ngày đường để kiếm cơm, người ta cũng lao mình vào đám đông để được chen lấn, trước khi được vào xem.
Nhưng mà, đến một lúc người ta không thể chen được nữa vì ở trong đã chật như nêm. Những người vào sau, hét lớn: “Tôi có vé rồi! tôi có vé rồi!” Mặc, đã chật quá, không một chỗ rỗng để chen chân vào đâu được!
Tuy đã vào chật một rạp chớp bóng mà người đứng ngoài vẫn như không mất đi bao nhiêu đối với lúc cửa chưa mở”.
![]() |
Ảnh chụp bản tin trên Tràng An Báo số 469 |
Một thông tin đặc biệt quý, trên Tràng An Báo số 469, ra ngày 7/11/1939, có bản tin “Huế, đẹp…”, đưa thông tin liên quan đến bộ phim màu về Huế: “Đó là cái tên một cuốn film bằng màu do ông bạn Henri Richard quay ra để diễn tả những cái đẹp ở Kinh đô chúng ta.
Film ấy sẽ chiếu lần đầu tiên ở Huế, tại Viện Dân biểu, ngày 12 Novembre, lấy tiền giúp Hội La Fraternelle Franco Indochinoise.
Buổi chiếu ấy sẽ có Hoàng đế và Hoàng hậu và quan Khâm sứ Graffeuil chủ tọa.
Chúng tôi sẽ nói đến cái đẹp cái hay của cuốn film ấy, và tài đặc biệt của ông Nguyễn Henri Richard.
Từ hôm 12 Novembre, đến 16 Novembre, tại Viện Dân biểu, sẽ luôn luôn chiếu film: Huế đẹp và thơ…
Các bạn nên đến xem cho biết những tài nghệ của một người yêu nghệ thuật đối với giang sơn và cảnh vật Kinh đô”…
H.V
(SHSDB26/09-2017)
THÁI DOÃN LONGKính tặng thầy: Cao Xuân Hưởng, Nguyễn Trực Luyện và H.N
VÂN LONGHuế đã vào tôi từ thuở thiếu thời qua hai câu thơ của Nam Trân: Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo
PHAN THUẬN ANCó một bãi đất trống nằm giữa Ngọ Môn và Kỳ Đài. Nói chính xác hơn, không gian ấy được giới hạn bởi đường 23 tháng 8 ở phía bắc, chân tường Kinh thành ở phía nam, con đường ngắn sau cửa Thể Nhân (thường gọi là cửa Ngăn) ở phía đông và con đường ngắn sau cửa Quảng Đức ở phía tây. Chiều bắc nam của nó rộng gần 125m và chiều đông tây dài khoảng 360m.
HỒ VĨNHTôi đứng trên sân thượng Sài Gòn- Morin Huế, nhìn lên phía Tây thành phố trong buổi chiều tà le lói vài tia nắng trên các tán lá rất cao. Nhìn về phía Bắc sông Hương, Thành nội cổ kính chìm trong cây xanh.
NGUYỄN THANH HÙNGTôi chưa biết Huế nên buồn vì bỏ qua một vẻ đẹp. Buồn vì mãi mãi không thể chiêm ngưỡng cố đô của đất nước một thời ngang ngửa. Một khoảng trống văn hóa về cổ vật kiến trúc nguyên vẹn của tịnh đô Huế không thể lấp đầy trong tôi, luôn tin tưởng vào sự hữu linh của vạn vật.
NGUYỄN TRỌNG HUẤN(Nhân xem “Huế - đất mẹ của tôi” sách ảnh của Đào Hoa Nữ. Nhớ Huế, suy ngẫm và…. cảm nhận)
TRƯƠNG THỊ THUYẾT1. Huế không chỉ nổi tiếng là một thành phố đẹp, nên thơ với những danh lam thắng cảnh như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ và những lăng tẩm cổ kính...mà còn được du khách biết đến bởi những nghề truyền thống của mình.
LÊ THỊ KIỀU HẠNHHiếm có một vùng đất nào trên thế giới mà con người đã tạo ra một bản sắc văn hóa độc đáo như kiểu nhà vườn Huế.
DĨNH QUỐC ANHLăng tẩm Huế là một trong những thành tựu rực rỡ bậc nhất của kiến trúc văn hóa cổ Việt Nam. Ngoài 8 lăng chính của các vua Gia Long, Minh Mạng,Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Kiến Phúc, Đồng Khánh, Khải Định, còn có đến hàng ngàn ngôi mộ tồn tại qua nhiều thế kỷ của các bậc danh nhân văn hóa, người có công với đất nước.
LÊ VIẾT XUÂNCó thể nói, so với các Bảo tàng và Di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh toàn quốc, thì Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên - Huế có một vị trí quan trọng, sau khu Di tích Kim Liên (Nghệ An), khu Di tích Pác-Bó (Cao Bằng), khu Di tích Phủ Chủ tịch và Bảo tàng Hồ Chí Minh Hà Nội.
BẢO ĐÀN 1. Đặt vấn đề1.1. Như một sự ngẫu nhiên của lịch sử, xứ Huế - từ vùng đất biên viễn quốc gia trong nhiều thế kỷ, trở thành thủ phủ của vùng miền và là kinh đô của một quốc gia thống nhất sau đó. Đây chính là nền tảng thuận lợi để vùng đất này hội tụ, quy tập cho mình một hệ thống làng nghề thủ công, cần thiết cho sự tồn tại và làm tròn vai trò của một vùng trung tâm.
BỬU Ý28 Tháng Hai lại về, gợi nhớ về sinh nhật của Trịnh Công Sơn. Vào thời điểm này, bạn bè Trịnh Công Sơn ở Huế và Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đang chuẩn bị cho Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn theo chủ trương của UBND tỉnh và mong muốn của những người yêu mến nhạc sĩ tài hoa này.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Bửu Ý- người bạn rất gắn bó với Trịnh Công Sơn - như một gợi ý mời gọi bạn bè cùng góp ý để sớm hình thành ý nguyện này.
THANH TÙNGNhững dịp lễ hội, những chiều hè gió lộng và đẹp trời, trên bầu trời cố đô Huế rực rỡ đủ sắc màu của những cánh diều mượt mà trong hình dáng các loài chim, thú: long, lân, ly, phụng, công, bướm, quạ. Đặc sắc nhất thì diều đại bàng cứu công chua, diều bướm đốt pháo, diều Tôn Ngộ Không...
NGUYỄN QUANG HÀCả khung trời hồng dần lên. Sóng Tam Giang lấp lánh hồng. Con thuyền của chúng tôi như rẽ bình minh đi thẳng đến mặt trời. Bầy chim trời đang ăn trên mặt phá, gặp động, chúng rào rào vỗ cánh vù bay lên, rợp trời, như một đám mây, rồi lại rào rào hạ cánh đáp xuống phía phá bên kia.
TRƯƠNG THỊ THUYẾTĂn là một biểu hiện của văn hóa. Nghiên cứu nhóm từ chỉ cách ăn uống, chỉ các món ăn của Huế là tìm ra những nét riêng biệt trong sắc thái văn hóa Huế.
THANH TÙNGVăn hoá tâm linh là một loại hình văn hoá tinh thần đặc thù của nhiều dân tộc trên thế giới. Với người Việt, từ xưa đến nay văn hóa tâm linh thể hiện ở tình cảm linh thiêng, ở niềm tin và sự tri ân của mọi người đối với những người thân đã mất, niềm tin của cả cộng đồng đối với những vị anh hùng, các bậc tiền bối đã có công lao xây dựng, bảo vệ đất nước; các vị tiền hiền được tôn làm Thần - Thánh, Thành hoàng; thể hiện sự kính trọng và cầu mong sự che chở của các vị thiên thần v.v…
TRẦN HÀ TRUNGCứ mỗi lần nghe tiếng trống vang khắp nước, nhất là ở Đống Đa lịch sử (mồng năm tháng giêng) lòng tôi rộn ràng từ những ngày bé nhỏ.
HỒ VĨNH Phóng sựTôi đứng trên nhà bia lăng Minh Mạng thì nghe kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski (Kazik) đột ngột qua đời vì bệnh tim. Tôi bàng hoàng lặng người trong giây lát rồi đạp xe về Thế Miếu nơi công trình Kazik đang trùng tu.
TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.
JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)