LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Cuộc sống khả hữu luôn thử thách tôi và bạn trong bất kỳ tồn tại không gian và thời gian nào. Dĩ nhiên, suy nghĩ vậy sẽ cản trở sự vượt qua giới hạn cần phải có của bản thân.
Giới hạn do chính chúng ta tạo ra, phụ thuộc chủ yếu vào ý thức chủ quan cá nhân. Vì thế Albert Einstein nói: “Khi chúng ta chấp nhận giới hạn của mình, chúng ta đã vượt qua nó”. Chúng ta thấy cái bóng của chính mình, thấy hình hài thực thụ của cái con người thân xác và cả tâm hồn không bị đóng băng. Trong hành trình khám phá cái bên trong lẫn cái bên ngoài, tôi thấy thật sự cần thiết phải ngồi lại chiêm nghiệm, phải phục vụ sự viết về những gì đã gắn bó, phô bày cái đẹp, cái khổ, hạnh phúc, mất mát, chân lý… đều có lý do để gọi tên.
Tôi vẫn thường muốn chép lại những hồi ức đã ngủ quên, cả trạng huống, diễn tiến tinh thần lúc tôi điền dã những vùng đất đi qua. Sự lục lại, truy vấn trí nhớ có thể không phục hồi nguyên trạng nhưng chí ít cũng gìn giữ những chi tiết có tính mộc bản của hồi ức. Khởi nguồn của hồi ức có lẽ đến từ sự chủ quan về cái đẹp (beauty). Con người tri giác hẳn đều cảm nhận sự hiện diện của cái đẹp, nguồn gốc hứng khởi, tô điểm cho thế giới sắc màu. Một câu đố giữa cuộc đời về cái đẹp, ý nghĩa tồn tại của nó, nếu săn lùng, ngưỡng vọng, bạn và tôi sẽ có câu trả lời theo cách của mình. Trong “vương quốc của cảm giác” (như lời Hegel), tôi mơ hồ trong hành trình “đi tìm thời gian đã mất” của hoài niệm, của lãng quên, của suy tàn. Cái đẹp luôn tồn tại trong thiên nhiên rộng lớn của hóa công và thế giới tinh thần nhân loại, trong cảm xúc với ý chí cá nhân. Nhận định về cái đẹp cũng đi vào sự hài hòa giữa lằn ranh lý trí với tưởng tượng. Cái đẹp tự thân đã dâng hiến cho chúng ta, hãy truy vấn và khắc ký nó.
Trong diễn biến đời sống, mỗi người ý thức được về bổn phận của mình trong cuộc sống này, cần gì và làm như thế nào, hiệu quả ra sao phải được xác định và nhận thức đúng. Có lẽ sẽ chẳng ai tự tin quá nhiều để thách thức mọi giới hạn, dù là trong lĩnh vực sở trường của mình. Nhưng chắc rằng chúng ta thường nghĩ chẳng thể làm được việc đó khi phải đối mặt những điều mới mẻ, vượt ngoài sự hiểu biết và khả năng của mình. Qua bút ký văn học, tôi đã dấn bước “tiến vào những điều không thể”, nhận diện được giới hạn của mình trên hành trình đi và sự ở lại mang tính trói buộc của không gian. Đi bằng tư tưởng rạo rực khai phóng và thân xác thì ở lại bồi đắp, tu dưỡng, giữ gìn. Đi bằng phần thân nhưng phần tâm vẫn ở lại neo đậu quê hương. “Đi - như là ở lại”, một ý thơ của nhà thơ Inrasara, cho nỗi trầm tư, là “một hơi gió xâu dài thế kỷ” mà đôi lúc, chúng ta đã được sống lại từ cơn phóng tưởng.
Và một cái “cần” khác trên hành trình “sự cô độc bận rộn”, nghĩ như Voltaire là “niềm hạnh phúc to lớn nhất”, mặc sức lôi kéo, đẩy đây đưa bản thân tìm tòi cái biết. Đôi chân tôi bước trên mọi nẻo đường, luôn bề bộn với những kế hoạch hành trình chinh phục những vùng đất mới. Tôi gọi mình là lữ khách, gọi chiếc xe nghìn dặm là ngựa. Lữ khách một mình lang thang trên cao nguyên, trên đồng xanh, trên non cao, trên những phế tích kiếm tìm giấc mơ thất lạc. Khi ấy, tôi không cô độc nếu tôi biết làm bạn với chính mình để ghi lại đôi điều gì đó đã trải qua.
Qua bút ký, tôi muốn chắt nhặt từ căn cước những vùng đất những cái riêng, cốt lõi cần lưu giữ như bản nghĩa của văn hóa chính là sự gieo trồng tinh thần (cultus - latinh), và là sự tiếp diễn của quá trình kế thừa truyền thống. Sự gieo trồng tinh thần ấy xuất phát từ sự mê hoặc của vùng văn hóa tôi đã đi qua. Mượn lời mình để dẫn dụ về cái đã/sẽ biến mất như quy luật tất nhiên, để gìn giữ trong trái tim và tâm hồn bản sắc theo cách hiểu của tôi. Người cầm bút tức là người phụng sự văn hóa, người phụng sự văn hóa thật không đơn giản (nếu làm sai) như lời của Vương Dương Minh là “giết cả một đời”.
*
Và nữa, tôi cũng dành đôi lời lạm bàn về về yếu tính của thể loại bút ký văn học theo kiến giải, hiểu biết hạn hẹp của cá nhân mình. Nếu chữ giữ lại từ “ký” thì thể loại này có thể nói là cội nguồn, cái ban đầu của mong muốn chủ quan con người là chép lại cái đã diễn ra, mở đầu bằng những trang sử đậm chất hiện thực của thời cổ đại theo hình thức biên niên hoặc cương mục với những tên tuổi Đông - Tây như Tư Mã Thiên (Trung Quốc), Tacitius (Rome); đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ ở các thời đại sau… Ở nước ta, phải đến thời trung đại, thể ký theo cách hiểu nói trên xuất hiện trong nhiều trước tác của các chính trị gia, văn nhân muốn thu phóng sự hiểu biết của mình trong những áng văn bất hủ. Chúng mang tính trứ thuật cao và dưới tay bút của những Lê Quý Đôn, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Lê Hữu Trác… cũng tạo thành một mảng bút ký cổ điển bằng văn xuôi chữ Hán, được hậu thế xem như các tác phẩm nghệ thuật, vì sự tương đồng với văn chương hiện đại.
Thế kỷ XX, bút ký văn học phát triển theo xu thế mới, hướng đến tính nghệ thuật và ở mức độ sâu sắc nhất là một tác phẩm nghệ thuật, có hình hài như hôm nay. Những thế hệ tiền bối, thế hệ tiếp nối như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Bắc Sơn, Văn Cầm Hải… với những tác phẩm nền mẫu đậm đà, định hình cho quy phạm của thể loại bút ký văn học nguyên bản. Tiếp nối đó, hàng trăm cây bút trên văn đàn liên tục bổ sung đội ngũ và tác phẩm bút ký văn học hội tụ đủ chất và lượng, hầu khắp khắp ba miền, cho thấy sức sống bền bỉ và cuốn hút của thể loại này.
Sự xác tín về nội hàm của thể bút ký văn học nằm ở tính phi hư cấu (nonfiction) có thật sự cần thiết không, để qua đó nắm bắt được những chất liệu chính yếu, rằng hiện thực là nền tảng và sự thật là tiêu chí của bút ký. Dĩ nhiên, mọi sáng tác văn chương đều khởi nguồn từ hiện thực, thứ nguyên liệu không thể tách rời khỏi cảm thức sáng tạo, là mảnh đất màu mỡ cho những luống cày chữ nghĩa trung thành với hiện thực dù muốn ảo diệu, biến hóa thế nào đi chăng nữa. Hay nói cách khác, cuộc sống là mạch nguồn của văn chương. Thông qua thiên chức cao đẹp nhất của văn chương là đặc tính hư cấu (fiction), hiện thực được phản ánh lung linh và giàu màu sắc tưởng tượng. Thể bút ký văn học có cần phải đạt đến độ “tận trung với hiện thực”, trưng dẫn từ sự tiếp thu của năm giác quan, để mang đến sự tiếp nhận lộng lẫy về hiện thực đời sống. Nhưng lại nói dìm hết mọi khả năng hư cấu trong bút ký là điều bất khả, một cách để làm hoặc sáo rỗng hoặc khô cứng văn chương. Hoàng Phủ Ngọc Tường bàn đến “phẩm chất mỹ học” để thể hiện sự tồn tại cho phép của hư cấu trong tác phẩm của ông như một lao động nghệ thuật. Phạm Hổ với tư cách thi sĩ của mình lại cho bút ký chỗ dựa trung dung là “cảm xúc thơ, những suy nghĩ thơ”. Sự mở cửa cho tính hư cấu vào trong bút ký văn học được xem như một sự khác biệt, nghệ thuật hóa thuộc tính thô, nguyên sơ của chất liệu hiện thực nếu như chỉ dừng lại ở mức ký sự, ghi chép sự kiện, nhân vật. Cái khác biệt lớn nhất ở chỗ bút ký phản ánh hiện thực như những chứng từ thực lục ở hình dạng, nguyên do của lớp vỏ ngoài của hiện thực. Các thể loại văn chương khác (thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết) chạm sâu vào cõi thẳm của hiện thực, vào thế giới tâm thức đương chờ chực mở phơi.
Bút ký văn học cần thiết tính hàn lâm và bay bổng của ngôn ngữ, có chăng là thứ ngôn ngữ thi ca được trộn lẫn trong điều chân thật của cuộc sống. Maiakovsky nói: “Tôi biết sức mạnh của ngôn từ … ngôn từ là tướng của đạo quân sức mạnh con người”. Bút ký phải đề xuất được thể văn phóng khoáng, mạnh mẽ, sâu sắc, lối viết linh hoạt, lúc khoan lúc nhặt, có thể nhẹ như lông hồng mà cũng nặng tựa ngàn cân. Những tác phẩm bút ký có giá trị văn học ngoài đáp ứng các giá trị hiện thực được dung nạp, phải khai thác triệt để sức mạnh của ngôn ngữ, giá trị mỹ học, đặc tính nhân văn và hòa trộn nhiều thể loại được trích xuất như một bản hợp xướng ngôn ngữ, tạo nên lối viết liên văn bản đầy sức cuốn hút. Bút ký văn học chứa đựng lượng thông tin lớn, đa hàm nghĩa, uyên áo. Bạn đọc có thể tìm thấy triết học, dân tộc học, lịch sử, thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết… ở những thể phách được lưu dẫn vừa vặn trong bút ký. Tính chất hư cấu có mức độ, yếu tính ngôn ngữ, vấn đề xây dựng cương mục, tính bác học tạo nên sự khác biệt đẳng cấp giữa bút ký văn học và các thể loại khác (ký báo chí, ký chân dung, ghi chép, tản văn…).
Trong lối kể, người viết thường ở ngôi thứ nhất, nói cách khác cái tôi của người cầm bút trực diện xuất hiện với tư cách là người trong cuộc. Ngoài ra, sự phối hợp nhiều điểm nhìn trần thuật cho một số nhân vật khác để nhìn nhận hiện thực đa chiều kích hơn. Cấu trúc tuyến tính theo thời gian được sử dụng đan xen với cấu trúc cương mục nên tính chất tự do, phóng khoáng trong việc trình bày, sắp xếp các chi tiết, sự kiện có tính hệ thống và dụng ý nghệ thuật là những cái cần để tạo dựng hình hài bút ký văn học.
Lẽ nữa, tôi muốn nói đến việc trưng dẫn sự khác biệt giữa sự thật và sự chính xác xem như một cách đọc hiểu bút ký văn học. Yêu cầu sự thật có thể đảm bảo nhưng tính chính xác tuyệt đối không phải lúc nào cũng được thỏa mãn. Quan điểm bút ký văn học không đòi hỏi tính xác thực ở mức tuyệt đối, tính cấp bách về thời sự như dạng bút ký báo chí được hiểu theo nghĩa này. Dù gì chúng ta, những kẻ hiện hữu trong đời sống chật hẹp này nên chăng đuổi bắt một bầu trời khác ngoài cơn mơ đến đi sau mỗi giấc ngủ, là bầu trời của nắng gió, của cái đẹp, của những điều cần chiêm nghiệm về những vùng đất đã thức dậy hay đương mơ về một quá khứ xa xăm nào đó.
L.V.T.G
(SHSDB27/12-2017)
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).
PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H
MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.