LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Cuộc sống khả hữu luôn thử thách tôi và bạn trong bất kỳ tồn tại không gian và thời gian nào. Dĩ nhiên, suy nghĩ vậy sẽ cản trở sự vượt qua giới hạn cần phải có của bản thân.
Giới hạn do chính chúng ta tạo ra, phụ thuộc chủ yếu vào ý thức chủ quan cá nhân. Vì thế Albert Einstein nói: “Khi chúng ta chấp nhận giới hạn của mình, chúng ta đã vượt qua nó”. Chúng ta thấy cái bóng của chính mình, thấy hình hài thực thụ của cái con người thân xác và cả tâm hồn không bị đóng băng. Trong hành trình khám phá cái bên trong lẫn cái bên ngoài, tôi thấy thật sự cần thiết phải ngồi lại chiêm nghiệm, phải phục vụ sự viết về những gì đã gắn bó, phô bày cái đẹp, cái khổ, hạnh phúc, mất mát, chân lý… đều có lý do để gọi tên.
Tôi vẫn thường muốn chép lại những hồi ức đã ngủ quên, cả trạng huống, diễn tiến tinh thần lúc tôi điền dã những vùng đất đi qua. Sự lục lại, truy vấn trí nhớ có thể không phục hồi nguyên trạng nhưng chí ít cũng gìn giữ những chi tiết có tính mộc bản của hồi ức. Khởi nguồn của hồi ức có lẽ đến từ sự chủ quan về cái đẹp (beauty). Con người tri giác hẳn đều cảm nhận sự hiện diện của cái đẹp, nguồn gốc hứng khởi, tô điểm cho thế giới sắc màu. Một câu đố giữa cuộc đời về cái đẹp, ý nghĩa tồn tại của nó, nếu săn lùng, ngưỡng vọng, bạn và tôi sẽ có câu trả lời theo cách của mình. Trong “vương quốc của cảm giác” (như lời Hegel), tôi mơ hồ trong hành trình “đi tìm thời gian đã mất” của hoài niệm, của lãng quên, của suy tàn. Cái đẹp luôn tồn tại trong thiên nhiên rộng lớn của hóa công và thế giới tinh thần nhân loại, trong cảm xúc với ý chí cá nhân. Nhận định về cái đẹp cũng đi vào sự hài hòa giữa lằn ranh lý trí với tưởng tượng. Cái đẹp tự thân đã dâng hiến cho chúng ta, hãy truy vấn và khắc ký nó.
Trong diễn biến đời sống, mỗi người ý thức được về bổn phận của mình trong cuộc sống này, cần gì và làm như thế nào, hiệu quả ra sao phải được xác định và nhận thức đúng. Có lẽ sẽ chẳng ai tự tin quá nhiều để thách thức mọi giới hạn, dù là trong lĩnh vực sở trường của mình. Nhưng chắc rằng chúng ta thường nghĩ chẳng thể làm được việc đó khi phải đối mặt những điều mới mẻ, vượt ngoài sự hiểu biết và khả năng của mình. Qua bút ký văn học, tôi đã dấn bước “tiến vào những điều không thể”, nhận diện được giới hạn của mình trên hành trình đi và sự ở lại mang tính trói buộc của không gian. Đi bằng tư tưởng rạo rực khai phóng và thân xác thì ở lại bồi đắp, tu dưỡng, giữ gìn. Đi bằng phần thân nhưng phần tâm vẫn ở lại neo đậu quê hương. “Đi - như là ở lại”, một ý thơ của nhà thơ Inrasara, cho nỗi trầm tư, là “một hơi gió xâu dài thế kỷ” mà đôi lúc, chúng ta đã được sống lại từ cơn phóng tưởng.
Và một cái “cần” khác trên hành trình “sự cô độc bận rộn”, nghĩ như Voltaire là “niềm hạnh phúc to lớn nhất”, mặc sức lôi kéo, đẩy đây đưa bản thân tìm tòi cái biết. Đôi chân tôi bước trên mọi nẻo đường, luôn bề bộn với những kế hoạch hành trình chinh phục những vùng đất mới. Tôi gọi mình là lữ khách, gọi chiếc xe nghìn dặm là ngựa. Lữ khách một mình lang thang trên cao nguyên, trên đồng xanh, trên non cao, trên những phế tích kiếm tìm giấc mơ thất lạc. Khi ấy, tôi không cô độc nếu tôi biết làm bạn với chính mình để ghi lại đôi điều gì đó đã trải qua.
Qua bút ký, tôi muốn chắt nhặt từ căn cước những vùng đất những cái riêng, cốt lõi cần lưu giữ như bản nghĩa của văn hóa chính là sự gieo trồng tinh thần (cultus - latinh), và là sự tiếp diễn của quá trình kế thừa truyền thống. Sự gieo trồng tinh thần ấy xuất phát từ sự mê hoặc của vùng văn hóa tôi đã đi qua. Mượn lời mình để dẫn dụ về cái đã/sẽ biến mất như quy luật tất nhiên, để gìn giữ trong trái tim và tâm hồn bản sắc theo cách hiểu của tôi. Người cầm bút tức là người phụng sự văn hóa, người phụng sự văn hóa thật không đơn giản (nếu làm sai) như lời của Vương Dương Minh là “giết cả một đời”.
*
Và nữa, tôi cũng dành đôi lời lạm bàn về về yếu tính của thể loại bút ký văn học theo kiến giải, hiểu biết hạn hẹp của cá nhân mình. Nếu chữ giữ lại từ “ký” thì thể loại này có thể nói là cội nguồn, cái ban đầu của mong muốn chủ quan con người là chép lại cái đã diễn ra, mở đầu bằng những trang sử đậm chất hiện thực của thời cổ đại theo hình thức biên niên hoặc cương mục với những tên tuổi Đông - Tây như Tư Mã Thiên (Trung Quốc), Tacitius (Rome); đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ ở các thời đại sau… Ở nước ta, phải đến thời trung đại, thể ký theo cách hiểu nói trên xuất hiện trong nhiều trước tác của các chính trị gia, văn nhân muốn thu phóng sự hiểu biết của mình trong những áng văn bất hủ. Chúng mang tính trứ thuật cao và dưới tay bút của những Lê Quý Đôn, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Lê Hữu Trác… cũng tạo thành một mảng bút ký cổ điển bằng văn xuôi chữ Hán, được hậu thế xem như các tác phẩm nghệ thuật, vì sự tương đồng với văn chương hiện đại.
Thế kỷ XX, bút ký văn học phát triển theo xu thế mới, hướng đến tính nghệ thuật và ở mức độ sâu sắc nhất là một tác phẩm nghệ thuật, có hình hài như hôm nay. Những thế hệ tiền bối, thế hệ tiếp nối như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Bắc Sơn, Văn Cầm Hải… với những tác phẩm nền mẫu đậm đà, định hình cho quy phạm của thể loại bút ký văn học nguyên bản. Tiếp nối đó, hàng trăm cây bút trên văn đàn liên tục bổ sung đội ngũ và tác phẩm bút ký văn học hội tụ đủ chất và lượng, hầu khắp khắp ba miền, cho thấy sức sống bền bỉ và cuốn hút của thể loại này.
Sự xác tín về nội hàm của thể bút ký văn học nằm ở tính phi hư cấu (nonfiction) có thật sự cần thiết không, để qua đó nắm bắt được những chất liệu chính yếu, rằng hiện thực là nền tảng và sự thật là tiêu chí của bút ký. Dĩ nhiên, mọi sáng tác văn chương đều khởi nguồn từ hiện thực, thứ nguyên liệu không thể tách rời khỏi cảm thức sáng tạo, là mảnh đất màu mỡ cho những luống cày chữ nghĩa trung thành với hiện thực dù muốn ảo diệu, biến hóa thế nào đi chăng nữa. Hay nói cách khác, cuộc sống là mạch nguồn của văn chương. Thông qua thiên chức cao đẹp nhất của văn chương là đặc tính hư cấu (fiction), hiện thực được phản ánh lung linh và giàu màu sắc tưởng tượng. Thể bút ký văn học có cần phải đạt đến độ “tận trung với hiện thực”, trưng dẫn từ sự tiếp thu của năm giác quan, để mang đến sự tiếp nhận lộng lẫy về hiện thực đời sống. Nhưng lại nói dìm hết mọi khả năng hư cấu trong bút ký là điều bất khả, một cách để làm hoặc sáo rỗng hoặc khô cứng văn chương. Hoàng Phủ Ngọc Tường bàn đến “phẩm chất mỹ học” để thể hiện sự tồn tại cho phép của hư cấu trong tác phẩm của ông như một lao động nghệ thuật. Phạm Hổ với tư cách thi sĩ của mình lại cho bút ký chỗ dựa trung dung là “cảm xúc thơ, những suy nghĩ thơ”. Sự mở cửa cho tính hư cấu vào trong bút ký văn học được xem như một sự khác biệt, nghệ thuật hóa thuộc tính thô, nguyên sơ của chất liệu hiện thực nếu như chỉ dừng lại ở mức ký sự, ghi chép sự kiện, nhân vật. Cái khác biệt lớn nhất ở chỗ bút ký phản ánh hiện thực như những chứng từ thực lục ở hình dạng, nguyên do của lớp vỏ ngoài của hiện thực. Các thể loại văn chương khác (thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết) chạm sâu vào cõi thẳm của hiện thực, vào thế giới tâm thức đương chờ chực mở phơi.
Bút ký văn học cần thiết tính hàn lâm và bay bổng của ngôn ngữ, có chăng là thứ ngôn ngữ thi ca được trộn lẫn trong điều chân thật của cuộc sống. Maiakovsky nói: “Tôi biết sức mạnh của ngôn từ … ngôn từ là tướng của đạo quân sức mạnh con người”. Bút ký phải đề xuất được thể văn phóng khoáng, mạnh mẽ, sâu sắc, lối viết linh hoạt, lúc khoan lúc nhặt, có thể nhẹ như lông hồng mà cũng nặng tựa ngàn cân. Những tác phẩm bút ký có giá trị văn học ngoài đáp ứng các giá trị hiện thực được dung nạp, phải khai thác triệt để sức mạnh của ngôn ngữ, giá trị mỹ học, đặc tính nhân văn và hòa trộn nhiều thể loại được trích xuất như một bản hợp xướng ngôn ngữ, tạo nên lối viết liên văn bản đầy sức cuốn hút. Bút ký văn học chứa đựng lượng thông tin lớn, đa hàm nghĩa, uyên áo. Bạn đọc có thể tìm thấy triết học, dân tộc học, lịch sử, thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết… ở những thể phách được lưu dẫn vừa vặn trong bút ký. Tính chất hư cấu có mức độ, yếu tính ngôn ngữ, vấn đề xây dựng cương mục, tính bác học tạo nên sự khác biệt đẳng cấp giữa bút ký văn học và các thể loại khác (ký báo chí, ký chân dung, ghi chép, tản văn…).
Trong lối kể, người viết thường ở ngôi thứ nhất, nói cách khác cái tôi của người cầm bút trực diện xuất hiện với tư cách là người trong cuộc. Ngoài ra, sự phối hợp nhiều điểm nhìn trần thuật cho một số nhân vật khác để nhìn nhận hiện thực đa chiều kích hơn. Cấu trúc tuyến tính theo thời gian được sử dụng đan xen với cấu trúc cương mục nên tính chất tự do, phóng khoáng trong việc trình bày, sắp xếp các chi tiết, sự kiện có tính hệ thống và dụng ý nghệ thuật là những cái cần để tạo dựng hình hài bút ký văn học.
Lẽ nữa, tôi muốn nói đến việc trưng dẫn sự khác biệt giữa sự thật và sự chính xác xem như một cách đọc hiểu bút ký văn học. Yêu cầu sự thật có thể đảm bảo nhưng tính chính xác tuyệt đối không phải lúc nào cũng được thỏa mãn. Quan điểm bút ký văn học không đòi hỏi tính xác thực ở mức tuyệt đối, tính cấp bách về thời sự như dạng bút ký báo chí được hiểu theo nghĩa này. Dù gì chúng ta, những kẻ hiện hữu trong đời sống chật hẹp này nên chăng đuổi bắt một bầu trời khác ngoài cơn mơ đến đi sau mỗi giấc ngủ, là bầu trời của nắng gió, của cái đẹp, của những điều cần chiêm nghiệm về những vùng đất đã thức dậy hay đương mơ về một quá khứ xa xăm nào đó.
L.V.T.G
(SHSDB27/12-2017)
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.