Thế giới cỏ dại trong văn thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường

09:12 24/04/2009
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

1. Từ những trang kí nặng trĩu trầm tư...

Ai đó đã nói: trong giọt nước có cả vũ trụ. Cái li ti của ngọn cỏ, giọt sương qua cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường dường như có sự chuyển đổi thú vị từ vi mô đến vĩ mô. Theo nhà văn, qua cây cỏ “con người có thể từ ngôi nhà nhỏ của mình bước vào ngôi nhà lớn của vũ trụ” (Tính cách Huế).

Trong thế giới nghệ thuật đa sắc màu của Hoàng Phủ Ngọc Tường, cỏ được nâng lên thành một triết lí sống, biểu hiện cái tâm trong trẻo của nhà văn trước những biến động lịch sử và cả những bề bộn đời thường. Miêu tả một loài cỏ lạ - “Những cây cỏ mảnh khảnh thân chỉ bằng cây tăm, với vài ba nhánh lơ thơ giống lá rong, trên đầu mỗi cây nở một bông hoa giống như hoa tigôn, và tất cả hoa đều đỏ một màu máu tươi”- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm một cuộc đối thoại với những sinh thể li ti mà ngồn ngộn sức sống này. Dường như nhà văn lắng nghe, cảm nhận đến từng vi mạch của loài hoa cỏ nội.

Lời của nhà văn: “Hỡi những bông hoa nhỏ, Hãy cho ta biết, ngươi ước vọng điều gì trong cuộc sống vô ưu của người?”.

Lời của cỏ “Chỉ cần một ngày nắng đẹp để nở hoa, thế thôi. Tôi có một trái tim hồng ngọc chỉ để sống và chết một lần với trái tim của tôi” (Sử thi buồn).

Mẫu đối thoại đầy chất độc thoại, như mở lòng, như bậc hiền triết xưa bộc bạch cái tâm minh triết giữa đất trời cây cỏ. Phải chăng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đạt tới Tâm Thiền để nghe tiếng thì thầm của nội cỏ trong trạng thái giao cảm kì diệu với vạn vật. Trái tim của loài cỏ dại  cũng chính là trái tim hồng ngọc với một chữ tâm sáng run rẩy hoài trong lồng ngực của một nhà văn đau đáu với quá khứ, hết mình với hiện tại và nhiều ước vọng ở tương lai.

Hoàng Phủ Ngọc Tường cho ta nhận ra một điều giản dị, nhưng là cái giản dị sau một quá trình chiêm nghiệm. Trong cảm nhận của nhà văn, loài hoa cỏ nhỏ nhoi, mỏng manh  mà chứa bao điều bí mật. Dường như Hoàng Phủ Ngọc Tường trầm ngâm nhìn sâu vào cõi đằng sau cây cỏ để bật thốt lên câu hỏi chỉ có ở những con người luôn trăn trở về lẽ đời: “Cây chỉ nở một lần hoa rồi chết. Mỗi cây chỉ dính vào mặt đá bằng ba mẩu rễ li ti, không biết nó tự nuôi sống bằng cách nào để nở ra một đóa hoa cao sang đến thế”. Loài cỏ đá sống hết mình trong những trang văn của Hoàng Phủ gợi nhớ đến một loài chim chỉ hót một lần trong đời, nhưng hót bằng trái tim nồng nàn dâng hiến - tiếng chim hót trong bụi mận gai. Lại muốn dẫn lời của chính nhà văn: “Ôi khát vọng của cuộc đời sao mà gay gắt” (Sử thi buồn).

Cỏ trong tác phẩm Hoàng Phủ Ngọc Tường còn là khát vọng hòa nhập với tự nhiên. Như bản năng của một đứa trẻ ôm bầu vú mẹ, Hoàng Phủ đã thể hiện thật tinh tế cơn khát cháy lòng hòa nhập với vũ trụ. Phải khát đến cháy lòng (Tâm), phải quan sát thật tỉ mỉ (Trí), phải biết chọn những con chữ thật sống, thật có hồn (Tài) nhà văn mới biến rêu, cỏ, sương, và... tôi, thành một cơn mê cuồng hòa nhập: “Những đám rêu mỗi lúc một dày hơn, và rồi hiện ra những chấm bụi nước li ti trên những cọng bông rêu nhỏ như sợi tóc... Tôi uống cạn vũng nước ấy bằng hơi thở đắm đuối của một chiếc hôn; xong nằm phủ phục giữa lòng con suối khô, giống như một con tắc kè uống sương, thè lưỡi đón những giọt nước tái sinh như sữa mẹ” (Sử thi buồn).

Chẳng phải tình cờ, cỏ trong cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường còn là một chốn hằng cửu. Ở đó, trong miền kí ức còn tươi rói của nhà văn, có một khoảnh khắc trở thành bất tử, Ngô Kha đã “nằm úp mặt xuống cỏ với một vết đạn hồng sau gáy” (Sử thi buồn). Theo quan niệm của Hoàng Phủ Ngọc Tường “người ta không nên dính líu quá nhiều đến quá khứ nhưng người ta cũng khó lòng đoạn tuyệt với quá khứ. Với anh “quá khứ là những gì thân thuộc nhất của tâm hồn ,... là tài sản quý báu còn lại sau cùng của đời người, mãi mãi không thay đổi” (Trịnh Công Sơn và cây đàn lia của hoàng tử bé). Trong miền quá khứ “mãi mãi không thay đổi ấy” của anh, bóng dáng những Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Ngô Kha, những nghệ sĩ trí thức đầy tâm huyết lại hiện ra cùng với cỏ. Lạ lùng thay, nhớ về quá khứ bộn bề khói lửa chiến tranh, trong miền nhớ của Hoàng Phủ lại là “một con đường ven sông có thảm cỏ dày, và hương cỏ đêm khuya thơm lạ lùng làm người ta nghĩ đến một nỗi bình yên nào đó không có ở đời”. Hương cỏ đêm. Một khoảnh khắc bình yên của chiến tranh. Một cõi an nhiên hiếm hoi của những “gã lang thang” đã  chọn cho mình một con đường đầy sóng gió. Trong vùng kí ức dành riêng cho những người bạn, lại có một khoảnh khắc trở thành thiên thu: “Khi Đỗ ngủ say, Ngô Kha đi nhặt đâu đó những cánh hoa phượng vĩ hồng, đem rải quanh người anh, để khi anh ngủ dậy, còn lại dấu vết một hình người trên mặt cỏ”. Và mãi mãi, hằn in trong tâm trí Hoàng Phủ khi nghĩ về Đỗ, vẫn hiện ra “một hình người vẽ bằng nét hoa nằm im trên cỏ” (Căn nhà của những gã lang thang). Cỏ hoa đồng nội gần gũi với con người đến thế.

Đôi lúc thật bất ngờ Hoàng Phủ đưa ra những triết lí về cỏ thật tự nhiên. Theo anh cây cỏ là tiếng nói của tâm linh. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thấu thị được ngôn ngữ của tâm linh ấy. Viết về loài bông cỏ - hoa ngũ sắc của mọi tuổi thơ - ở vùng Mỹ Thủy chỉ nở toàn hoa đỏ thắm, Hoàng Phủ Ngọc Tường làm người đọc bất ngờ với cách giải thích của anh: “Hoa là trí nhớ của đất, và đất này thì tưới nhiều máu, nên cây cỏ hoa màu đỏ. Có nhiều điều quan trọng của mảnh đất này mà con người đã quên đi cây cỏ nhắc lại” (Bông ngũ sắc). Mẫu nhàn đàm cho thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng bao giờ nhàn khi ngắm nhìn một bông cỏ dại. Chợt nhớ một vần thơ về cỏ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết từ thuở xa xưa, khi bước chân anh còn rong ruổi mọi miền đất nước:
                        Anh hái cho em bông hoa cỏ ở Lạng Sơn
                        Không có gì lạ đâu, chỉ là một ngọn cỏ không tên
                        Nhưng không đâu nơi này
                                                anh đăm đăm nhìn mặt đất
                        Vì ở đấy tự nghìn năm cỏ hoa đã định hình tổ quốc.
                                                            (Ngọn cỏ làm chứng)
Trong mẫu kí Chế ngự cát, những trang viết về cát và cỏ của Hoàng Phủ giàu chất sử thi . Sức người. Sức cỏ. Để làm một con đê cát, người dân Hải Lăng đã phải gánh khoảng 11 triệu gánh cát trên đôi vai của mình. “Cát bay: lấy cỏ trồng lên mặt đê... Đê đắp đến đâu, trồng cỏ đến đấy:. Có những giọt máu đã đổ trên đê cát. Vậy mà niềm tin cứ lấp lánh đầu ngọn bút của nhà văn. Và bất chợt cỏ lại xuất hiện- “Cả một vùng cát mênh mông ven biển dậy lên trong sắc đẹp của cỏ hoa đồng nội”. Ở đâu, lúc nào Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng nghe được tiếng nói thầm thì của nội cỏ.

Cỏ trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường còn là không gian văn hóa. Nhà văn đã viết nhiều, viết hay về văn hóa vườn ở Huế (Hoa trái quanh tôi, Thành phố và chim, Những người trồng hoa, Lan Huyền Không...) nhưng vẫn không quên dành những trang văn nồng ấm về một Miền cỏ thơm hay Bản di chúc cỏ lau. Sống trong miền cỏ thơm ấy, liệu có mấy ai nhận ra hết vẻ đẹp thơ mộng của cỏ, như cảm xúc của nhà văn: “Nhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ... Mùa xuân về, mặt đất công viên sáng bừng lên bởi ngàn vạn bông cỏ tím, mỗi bông cỏ lại ngậm trong lòng một hạt sương mai, khiến vào buổi sáng, cỏ ở ven sông Hương lấp lánh như những hạt ngọc...” (Miền cỏ thơm).            

Trong những năm tháng chiến tranh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhập cuộc như một nhà văn- chiến sĩ. Năm tháng qua, sau những miệt mài rong ruổi, anh đã nhiều lần chạm mặt vào cỏ, hít thở cái mùi hăng nồng lẫn ngọt ngào của cỏ để ngẫm bao nhiêu điều về cuộc đời- hạnh phúc lẫn khổ đau, trần trụi và huyền hoặc, tin yêu lẫn man trá, vĩnh hằng hay phù du... Những trầm tư ấy có lúc Hoàng Phủ nghiệm ra từ cỏ, một loài cây bình dị, không tên, bám riết vào nhựa đất, xanh đến nao lòng.

2. ... Đến những vần thơ trữ tình triết lí

Bên cạnh những trang tùy bút đầy chất thơ, cõi thơ của người thi sĩ  rất Huế này cũng là một vũ trụ thu nhỏ với hình ảnh đồi cỏ thơm, trời mây khói, thiên hà, miền cỏ gai, ngàn thông, châu chấu và chim sẻ... Trong thế giới nghệ thuật đó, cỏ trở thành ẩn dụ cho triết lí vô thường. Dường như sau những dấn thân, nhập cuộc hoặc những bước chân phiêu bạt, những phút lãng du, cái tôi trữ tình trong thơ anh lại khao khát tìm về. Dường như nhà thơ rẽ cỏ dại, rẽ thiên nhiên hoang sơ mà bước ra cõi đời này: “Chim hỏi tôi: người từ đâu đến?/ Thưa chim rằng: tôi từ cỏ sinh ra” (Tôi biết nơi kia có một chỗ ngồi). Để rồi người thi sĩ của thiên nhiên lại tìm về ngôi nhà thiên nhiên của mình. Về với mây ngàn cỏ dại, Về chơi với cỏ, về với Cỏ, chim sẻ và châu chấu... Cỏ dại trở thành chiếc cầu nối tương giao giữa thiên nhiên và thế giới nội tâm. Tôi và cỏ, hữu ngôn và vô ngôn, nhất thời và hằng cửu:
                        Có nhiều khi tôi quá buồn
                        Tôi ước mong quanh chỗ tôi ngồi
                        Mọc lên thật nhiều cây cỏ
                        Cây xấu hổ đau gì mà rủ lá
                        Tôi gập người trên bóng tôi.
                                                (Cỏ, chim sẻ và châu chấu)
Hoàng Phủ Ngọc Tường hay thổ lộ nỗi buồn trong thơ. Có lúc anh nói tới một nỗi buồn thật đến xót lòng. Thật, bởi anh không làm dáng, không ồn ào câu chữ. Vâng, đã có lúc chúng ta làm dáng bằng niềm vui, cũng có lúc chúng ta làm dáng bằng nỗi buồn. Thật như cỏ, hồn nhiên như cỏ, cái tôi trữ tình trong thơ Hoàng Phủ đã đạt đến vị thiền. Đó là những lúc cỏ dại và tôi cùng hiện hữu như một nhất thể của vũ trụ bao la. Cỏ, thiên nhiên, con người hòa nhập làm một trong trạng thái hòa điệu nguyên thủy:
                        Không còn nghe ai nói cười
                        Tôi còn ngồi chi đây một mình
                        Cắn móng tay từng kí ức mong manh
                        Giống như con châu chấu nọ
                        Gặm hoài lá cỏ xanh...
                                                (Cỏ, chim sẻ và châu chấu)
Thiên nhiên trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là phiên bản tâm hồn anh. Hương cỏ, chim trời- cỏ dại, miền cỏ gai, ngọn đồi cỏ may... trong thơ anh không chỉ là biểu tượng của thiên nhiên thuần khiết mà còn lấp lánh chất nhân văn của một triết lí sống. Cái tôi có lúc thoát hẳn sự ràng buộc của bản thể để tan lẫn vào cỏ dại hoa ngàn:
                        Tôi trở về tìm trong hương cỏ
                        Dịu dàng một chút bình yên
                        Tôi biết nơi kia có một chỗ ngồi
                        Đã lâu lắm tôi chưa trở lại
                        Chắc bây giờ, chim trời- cỏ dại
                                                            (Tôi biết nơi kia có một chỗ ngồi)
Cỏ trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường còn là biểu tượng cho cái đẹp. Con người hòa vào cỏ, tìm về cỏ cũng là khoảnh khắc tìm đến cái đẹp. Có cảm giác nhà thơ luôn dọn mình trong động thái về chơi với cỏ. Dịu dàng. lãng đãng... “Tôi trở về tìm trong hương cỏ/ Dịu dàng một chút bình yên”; “Cảm ơn người trái đào tiên/ Tôi về lãng đãng nơi miền cỏ gai”.
                        Thưa rằng người đã quên tôi
                        Tôi về chơi với ngọn đồi cỏ may
                        Một đường hoang một dấu giày
                        Một người ngồi một tháng ngày bóng nghiêng.
                                                            (Về chơi với cỏ)
Không phải ngẫu nhiên điệp khúc “trở về” cứ vang lên trong thơ Hoàng Phủ như một nỗi niềm. Phải đạt tới tâm thiền mới xóa bỏ mọi ràng rịt của ham muốn, đưa tâm hồn hòa nhập với vũ trụ vô cùng như thế. Phải chăng giữa cỏ hoa Hoàng Phủ Ngọc Tường mới chính là mình. Giữa Đại ngã ta mới chính là ta. Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường nhuốm vị Thiền, phải chăng là vậy?

3. Đời ta có khi tựa lá cỏ- Ngồi hát ca rất tự do.          

Nếu thử tìm một chiếc chìa khóa để giải mã thế giới nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường, theo tôi, có lẽ đó là một ca từ rất đẹp của Trịnh Công Sơn “Đời ta có khi tựa lá cỏ- ngồi hát ca rất tự do” (Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ghi lại trong mẩu kí Hoa trái quanh tôi)
Cỏ trong văn thơ HPNT đã nối không gian và không gian, nối cõi lòng và cõi đời, nối con người và vũ trụ, nhất thời và vĩnh hằng... Nhỏ nhoi quá là cỏ, lớn lao quá cũng là cỏ. Ngôn ngữ cỏ hoa. Triết- lí -đời- người...

L.T.H

(202/12-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?

  • NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.

  • HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)