HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Bút ký
Chưa cần đến âm nhạc, Huế từ trong tâm hồn nó đã mang sẵn một mêlôđy của riêng mình.
Ảnh: internet
Là thành phố vườn, Huế tràn đầy thanh âm do thiên nhiên ban cho: dàn đồng ca của ve sầu mùa hè, tiếng hót trong và cao vút của ve kim như tiếng đàn viôlông mùa thu, lời nỉ non của côn trùng trong những khu vườn mùa đông, và cả bốn mùa, ôi Huế bốn mùa đầy tiếng chim.
Hêminguê có lần nhận xét rằng những người già thường ngủ muộn và dậy sớm hơn mọi người chung quanh, để cảm thấy cuộc đời dài hơn. Có lẽ đó là tình yêu cuộc sống theo cách của người Mỹ. Người già ở Huế thường ngủ sớm và dậy sớm, ngồi trước hiên để nghe chim hót. Bằng linh cảm loài chim vẫn đón nhận những tia nắng từ cõi xa xôi, và tiếng ca chào bình minh của loài chim trong những khu vườn Huế là một khúc nhạc kỳ diệu thanh lọc tâm hồn, dọn mình cho những khát vọng vĩnh hằng. Chính con người thi sĩ của Ngô Kha, vừa bắt đầu tuổi trẻ nồng nhiệt của mình, đã phát hiện rất sớm ý nghĩa thẳm sâu đó của bản thông điệp tiếng chim: "Ước mong như người già - Sớm mai thức dậy nghe chim kêu".
Sinh ra ở Huế, trước khi kết bạn với con người, thì người ta đã biết bầu bạn với loài chim, từ thuở chưa vào trường, và cứ thế cho đến lớn đến già. Thế hệ tôi, tôi vẫn còn kịp thấy một Huế đầy chim. Thuở ấy dọc đường Trần Hưng Đạo, khoảng trước trường Pôn-Be cũ còn những rặng bút bút cổ thụ, trên đó vào cuối mỗi chiều đàn cò ở đâu về ngủ, đậu trắng vòm lá, kêu xao xác cả quảng đường trước cửa Thượng Tứ. Giá như bây giờ đàn cò vẫn còn, mỗi chiều trẻ con lại đổ ra lề đường đứng ngóng chim về, thành phố sẽ dễ thương biết mấy!
Quạ không phải giống chim thân mật với con người, những tiếng kêu của nó vẫn vang vọng mãi nỗi nhớ làng quê mùa trái chín. Kỷ niệm tuổi thơ của tôi gắn liền với những ngày việc họ việc làng ở vùng Long Hồ, với lũ quạ xúm xít quanh giếng để rình đánh cắp thịt sống, đuổi không chịu đi, lần khân hơn gà vịt. Quạ rất được kính nể trong tập quán dân gian ở Huế. Nhiều người nghe quạ kêu liền ra hiên đứng chắp tay vái theo, thậm chí ông hoàng Tuy Lý còn vâng theo mẹ mà kiêng tên Quạ, gọi chệch ra là "Quệ". Lòng kính trọng dân giã ở người Huế dành cho loài quạ xuất phát từ một lẽ rất là đạo lý, bởi vì quạ vốn nổi tiếng là con chim có hiếu.
"Ơi đò ca cút! cho qua một chút!" Tiếng chim ca cút gọi đò trên phá Tam Giang kể lại truyền thuyết bi thương của hai người tình chung thủy, đấy là chữ tình, trong khi ở vùng nội ô chim ca cút hạ giọng thành "Ôi thôi rồi cơ cuộc!", kêu sầu về cuộc khởi nghĩa thất bại và vua Duy Tân phải đi đày; đấy là chữ trung. Tâm hồn Huế xưa kia vẫn mang những buồn vui theo bóng chim. Con chim khách nào kêu "chẻo chè chẻo chẹc" trên đọt cau trước ngõ, ấy là niềm vui chờ bạn đến chơi, và nếu con chim chèo bẻo nào không đậu trên ngọn hóp lắt lẻo nơi hàng dậu, thì ô hô! điều ấy có nghĩa là bi kịch đã xảy ra đâu đó nơi cõi lòng: "Ai làm cho đó xa đây - cho con chim chèo bẻo phải xa cây măng vòi ".
Tưởng không cần nhiều hơn để nhận ra rằng có bao nhiêu điều trong đời sống nội tâm của người Huế đã hình thành qua tình bạn lâu dài với chim đến nỗi người ta đã mang theo tiếng chim vào âm nhạc để cố gắng đạt tới nỗi lòng, như trong bài Lý qua đèo. Đó là một khuôn mặt vô vàn của thiên nhiên Huế ba bốn mươi năm về trước.
Bây giờ thì tất cả đã bay về phương trời nào không biết, những đàn cò hoàng hôn, lũ quạ mùa mít chín, con chim ca cút kêu đò, con chim khách lẫn vườn cau, con chim chèo bẻo lẫn cây măng vòi, và sau cùng, cả con chim bói cá sặc sỡ bay vù qua ký ức tuổi thơ của tôi, mê hoặc như ảo ảnh. Bây giờ Thành phố vắng bóng chim, hầu như chim chóc đã bỏ Huế mà đi. Nguồn cơn ấy bởi vì đâu? Vì chiến tranh, vì mùi ét xăng và mùi hóa chất trên đồng ruộng, vì nhiều lý do bất khả kháng. Nhưng điều đáng giận nhất là chính vì người đời đã quên chim, để mặc cho những kẻ vụ lợi tha hồ tàn phá môi trường sinh sống và nỗi bình yên của chúng. Tôi cho rằng đây là một trong những điều đáng giá để suy nghĩ, trong mục đích cứu vãn Huế.
Tôi rất thích đi bộ thong thả dọc theo đường Ngô Quyền, con đường nhỏ yên tĩnh qua trước cổng trường Đại học Y bao giờ cũng thấy loáng thoáng bóng áo trắng của người thầy thuốc, và vào bất cứ giờ nào trong ngày, dưới tầng lá khép kín của hai hàng phượng, con đường vẫn râm mát như đi qua dưới một mái nhà. Và bao giờ cũng thế, tôi vẫn gặp lại chúng, những con chim sẻ nhảy nhót, đùa chơi trên mặt đường, rất dạn người, chỉ khẽ nhảy tránh khi bước chân tôi ngang qua. Vẻ vô tư của chúng làm tôi xúc động lạ thường: hình như tuổi - chim sẻ của tôi vẫn còn lại đâu đó, đang mê mải đánh bi bên vệ đường; tôi nhìn thấy nơi những chú chim nhỏ kia cái mà ký ức mùa tựu trường của Anatole France gọi là "bóng dáng của tôi hai mươi lăm năm về trước”.
Vào khoảng giữa buổi sáng vẫn thường có một bầy sẻ năm bảy con ở đâu bay đến kiếm ăn nơi hành lang trước cửa sổ nhà tôi, ở đó tôi đã vãi một nhúm gạo nhỏ dành sẵn cho chúng; lân la quen dần đến nỗi chúng vào hẳn trong nhà, quanh quẩn ngay chỗ tôi ngồi làm việc. Thế rồi một hôm đang mải viết thình lình tôi nghe một tiếng "đoàng" vang lên nơi vòm lá cây long não trước hành lang, bầy chim sẻ đang nhặt gạo gần đấy cất cánh bay vù đi như những bóng nắng. Nhìn xuống đường, tôi thấy một gã du đãng đang vác súng bắn chim lững thững bỏ đi. Lũ trẻ con nhặt mang lên cho tôi xem chiến lợi phẩm của gã để lại dưới gốc cây long não, một con chim én lạc lõng nào đã bị bắn chết, mấy giọt máu rỉ ra trên cái ức đen xanh của nó. Điều đáng buồn là từ hôm có tiếng súng nổ, bầy chim sẻ đã không trở lại trước cửa sổ phòng tôi nữa, chuyện vừa mới xảy ra trong mùa xuân vừa qua. Mong sao lũ chim nhỏ đáng yêu của tôi đừng giữ một kỷ niệm xấu về tôi, rằng chính tôi đã giăng sẵn một cái bẫy để định giết chúng.
Nói đúng ra, những năm sau này tôi vẫn còn niềm vui đứng lại bên đường ngắm chim anh vũ bay về. Đó là loài chim keo nhỏ, lông rất đẹp, từ vùng núi về Thành phố vào mùa trái gội chín, thường là vào thời kỳ từ lễ Vu lan đến trước Tết Nguyên Đán. Đàn anh vũ sà xuống những cây gội, và bắt đầu ngắm vũ bộ tuyệt vời của chúng: từng con bước đĩnh đạc dọc theo cành cây đến tận mút cành, xoay nửa vòng nằm ngửa mặt lên trời, chỉ giữ mình bằng hai chân níu cành theo thế đánh đu, và cứ thế nhấp nháp những trái gội chín đỏ. Ăn xong, chim anh vũ buông mình rơi tự do trong không và thoắt một cái, tung cánh bay ngược lên, cả đàn chim như một trận lá bốc lên trong gió, đẹp mê hồn. Thế rồi một lần, tai họa đã đến với chúng, ngay trước mắt tôi. Dưới cây gội đầu đường, một gã cần chất đạm nào đó chợt hiện ra, giương súng săn lia đạn vào đàn chim; chúng hoảng hốt bay tạt sang đường Trương Định nơi có khu tập thể của sở Thể Dục Thể Thao. Thật bất hạnh cho chúng, một gã xạ thủ khác chừng đã phục sẵn lại xả đạn vào bầy chim. Lũ anh vũ hoảng loạn mất phương hướng cứ thế bay lui bay tới giữa hai làn đạn, rơi lả tả xuống mặt đường như khế rụng. Trời ơi! Ước chi có một luật pháp nào của nền văn minh cho tôi quyền tước súng của hai kẻ dã man, và chính tôi sẽ đưa họ ra tòa về tội tàn sát thiên nhiên. Nhưng mà tôi bất lực. Sau cuộc thảm sát lần ấy, ba năm qua mùa thu nào tôi cũng trở lại chốn cũ thử xem: trái gội vẫn chín đỏ trên cành, nhưng giống như bầy sẻ nhà tôi, chim anh vũ không về nữa. Có lẽ đó là đàn anh vũ cuối cùng đã bỏ Huế mà đi.
Có lần tôi đến thăm Schwerin, một tỉnh có thiên nhiên rất đẹp của nước Đức, được du khách gọi là "Thành phố Đồi và Hồ". Mùa đông, Schwerin có hai loài chim đã trở thành bạn thân của con người: Chim nhạn và thiên nga. Cứ vào giờ ăn, bên ngoài cửa kính khách sạn lại xập xòa những chú chim nhạn bầu bĩnh với bộ lông mịn xốp màu xám tro. Tôi phải mở cửa tặng cho chúng một nắm vụn bánh mì, chúng mổ ăn ngay trong lòng bàn tay tôi, ăn xong vẫn đậu yên trên bậu cửa sổ, rất lịch sự, để chờ nhận được quà tiếp theo. Thiên nga thì đông đảo ở ven các hồ, thậm chí trên các lối đi qua công viên, người ta phải cắm những bảng hiệu giao thông vẽ hình một con chim nhỏ, lưu ý người đi dạo cẩn thận để khỏi dẫm phải những thiên nga con đang lẫm chẫm theo mẹ, tìm ăn những quả dâu đỏ kết thành chuỗi dài buông xuống sát mặt tuyết. Giống như những đứa trẻ bán vé số trong các quán ăn ở ta, cứ hễ thấy người lạ vừa đến ngồi nơi ghế đá là mẹ con thiên nga dắt nhau tới đòi ăn, và du khách nào cũng có sẵn trong túi mấy gói thức ăn bán sẵn trong công viên để làm quà cho chim, chim nhạn sinh sống ngay trong thành phố nhưng đến mùa sinh đẻ lại bay đi làm tổ ở một vùng thung lũng khác; còn thiên nga chỉ là kiều dân nhưng mùa đông lại về thành phố này để đẻ trứng ấp con. Vì thế cứ đến đầu mùa đông, người dân Schwerin lại tự đề ra thêm bổn phận gia đình phải lo cho chúng, bằng cách đóng những chiếc chuồng bằng gỗ giúp thiên nga trú đông. Quanh các bờ hồ Schwerin những căn nhà gỗ xinh xắn, đủ kiểu màu xếp cạnh nhau rất đẹp mắt, giống như những khách sạn phục vụ không tiền dành sẵn cho những gia đình chim. Ôi người dân Schwerin đã biết đối xử với thiên nhiên một cách có văn hóa như thế, mặc dù tôi đang thăm chơi ở một thành phố nhỏ của nước Đức, đang tiếp tục xây cất, và chưa bao giờ được UNESCO xếp hạng là "di sản văn hóa chung của nhân loại" giống như Huế của tôi.
Tôi có nói rằng thành phố Huế mang một giai điệu tâm hồn riêng, hài hòa tươi sáng như thiên nhiên quả là hơi thở của thiên nhiên, và có lẽ là một cái gì đó thuộc về âm nhạc của MOZART. Thế nhưng bây giờ, suốt một con đường đẹp nhất Huế là đường Lê-Lợi, cứ cách năm bảy chục mét lại mọc lên một điểm viđêô hoặc là một quán nước, từ đó dấy lên tiếng ồn của nhạc disco và nhiêu thứ rền rĩ tái bản của Sài Gòn mấy chục năm về trước: thời đó báo chí miền Nam đã chửi là: "Nhạc mari sến”. Lưu ý rằng đường Lê-Lợi chỉ toàn là cơ quan Nhà nước. Và chính đó là "giai điệu mới" đang chiếm lĩnh thành phố Huế. Chao ôi! Âm nhạc mà đến thế thì cả MOZART cũng phải bỏ đi huống chi là chim! Chợt nhớ lại một câu văn bia của lăng Tự Đức, đại thể: "Ta trồng nơi đây thật nhiều cây để gọi chim về, chim nào thấy vui thì cứ đến ở". Lại lưu ý rằng đây là văn bản được xem là thiêng liêng khắc trên đá hoa cương trước mộ của một trong những ông vua quyền lực nhất của nhà Nguyễn. Dù tàn bạo khét tiếng trong nghề đàn áp, hóa ra trong nghệ thuật kiến trúc của kinh thành Huế, Tự Đức lại là một nhà nhân đạo chủ nghĩa đi trước thời đại của ông biết bao nhiêu.
Dù sao, vẫn còn một cố gắng đơn độc nhằm bảo vệ loài chim ở Huế, nơi Hội những người Nuôi chim, vừa thành lập cách đây hai năm. Buổi lễ ra mắt thật là long trọng, có cả quốc kỳ, khẩu hiệu đỏ và diễn văn yêu cầu "Lãnh đạo quan tâm"; một vị cán bộ hưu trí vừa nhập hội ngồi cạnh tôi lấy thế làm khó chịu, nói càu nhàu: "Chẳng lẽ bây giờ người ta lại còn yêu cầu lãnh đạo luôn cả chim nữa à?" Câu phàn nàn của ông làm tôi bật cười. Nhưng chợt nghĩ lại nhiều điều trên mảnh đất cố đô này, tôi trả lời ông rất nghiêm chỉnh:
- Nhiều khi cũng đúng như thế thật. Cả vua Tự Đức cũng không coi việc chim là việc nhỏ. Chẳng thế mà người ta lại nói: "Đất lành chim đậu".
Huế, tháng 6 năm 1990
H.P.N.T.
(TCSH44/01-1991)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.
BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.
PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.
XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.
NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.
TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.
NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!
Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.
NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com
VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.
TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.
TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.
TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…
MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.
NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.
HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.
NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.
LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...