HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Bút ký
Chưa cần đến âm nhạc, Huế từ trong tâm hồn nó đã mang sẵn một mêlôđy của riêng mình.
Ảnh: internet
Là thành phố vườn, Huế tràn đầy thanh âm do thiên nhiên ban cho: dàn đồng ca của ve sầu mùa hè, tiếng hót trong và cao vút của ve kim như tiếng đàn viôlông mùa thu, lời nỉ non của côn trùng trong những khu vườn mùa đông, và cả bốn mùa, ôi Huế bốn mùa đầy tiếng chim.
Hêminguê có lần nhận xét rằng những người già thường ngủ muộn và dậy sớm hơn mọi người chung quanh, để cảm thấy cuộc đời dài hơn. Có lẽ đó là tình yêu cuộc sống theo cách của người Mỹ. Người già ở Huế thường ngủ sớm và dậy sớm, ngồi trước hiên để nghe chim hót. Bằng linh cảm loài chim vẫn đón nhận những tia nắng từ cõi xa xôi, và tiếng ca chào bình minh của loài chim trong những khu vườn Huế là một khúc nhạc kỳ diệu thanh lọc tâm hồn, dọn mình cho những khát vọng vĩnh hằng. Chính con người thi sĩ của Ngô Kha, vừa bắt đầu tuổi trẻ nồng nhiệt của mình, đã phát hiện rất sớm ý nghĩa thẳm sâu đó của bản thông điệp tiếng chim: "Ước mong như người già - Sớm mai thức dậy nghe chim kêu".
Sinh ra ở Huế, trước khi kết bạn với con người, thì người ta đã biết bầu bạn với loài chim, từ thuở chưa vào trường, và cứ thế cho đến lớn đến già. Thế hệ tôi, tôi vẫn còn kịp thấy một Huế đầy chim. Thuở ấy dọc đường Trần Hưng Đạo, khoảng trước trường Pôn-Be cũ còn những rặng bút bút cổ thụ, trên đó vào cuối mỗi chiều đàn cò ở đâu về ngủ, đậu trắng vòm lá, kêu xao xác cả quảng đường trước cửa Thượng Tứ. Giá như bây giờ đàn cò vẫn còn, mỗi chiều trẻ con lại đổ ra lề đường đứng ngóng chim về, thành phố sẽ dễ thương biết mấy!
Quạ không phải giống chim thân mật với con người, những tiếng kêu của nó vẫn vang vọng mãi nỗi nhớ làng quê mùa trái chín. Kỷ niệm tuổi thơ của tôi gắn liền với những ngày việc họ việc làng ở vùng Long Hồ, với lũ quạ xúm xít quanh giếng để rình đánh cắp thịt sống, đuổi không chịu đi, lần khân hơn gà vịt. Quạ rất được kính nể trong tập quán dân gian ở Huế. Nhiều người nghe quạ kêu liền ra hiên đứng chắp tay vái theo, thậm chí ông hoàng Tuy Lý còn vâng theo mẹ mà kiêng tên Quạ, gọi chệch ra là "Quệ". Lòng kính trọng dân giã ở người Huế dành cho loài quạ xuất phát từ một lẽ rất là đạo lý, bởi vì quạ vốn nổi tiếng là con chim có hiếu.
"Ơi đò ca cút! cho qua một chút!" Tiếng chim ca cút gọi đò trên phá Tam Giang kể lại truyền thuyết bi thương của hai người tình chung thủy, đấy là chữ tình, trong khi ở vùng nội ô chim ca cút hạ giọng thành "Ôi thôi rồi cơ cuộc!", kêu sầu về cuộc khởi nghĩa thất bại và vua Duy Tân phải đi đày; đấy là chữ trung. Tâm hồn Huế xưa kia vẫn mang những buồn vui theo bóng chim. Con chim khách nào kêu "chẻo chè chẻo chẹc" trên đọt cau trước ngõ, ấy là niềm vui chờ bạn đến chơi, và nếu con chim chèo bẻo nào không đậu trên ngọn hóp lắt lẻo nơi hàng dậu, thì ô hô! điều ấy có nghĩa là bi kịch đã xảy ra đâu đó nơi cõi lòng: "Ai làm cho đó xa đây - cho con chim chèo bẻo phải xa cây măng vòi ".
Tưởng không cần nhiều hơn để nhận ra rằng có bao nhiêu điều trong đời sống nội tâm của người Huế đã hình thành qua tình bạn lâu dài với chim đến nỗi người ta đã mang theo tiếng chim vào âm nhạc để cố gắng đạt tới nỗi lòng, như trong bài Lý qua đèo. Đó là một khuôn mặt vô vàn của thiên nhiên Huế ba bốn mươi năm về trước.
Bây giờ thì tất cả đã bay về phương trời nào không biết, những đàn cò hoàng hôn, lũ quạ mùa mít chín, con chim ca cút kêu đò, con chim khách lẫn vườn cau, con chim chèo bẻo lẫn cây măng vòi, và sau cùng, cả con chim bói cá sặc sỡ bay vù qua ký ức tuổi thơ của tôi, mê hoặc như ảo ảnh. Bây giờ Thành phố vắng bóng chim, hầu như chim chóc đã bỏ Huế mà đi. Nguồn cơn ấy bởi vì đâu? Vì chiến tranh, vì mùi ét xăng và mùi hóa chất trên đồng ruộng, vì nhiều lý do bất khả kháng. Nhưng điều đáng giận nhất là chính vì người đời đã quên chim, để mặc cho những kẻ vụ lợi tha hồ tàn phá môi trường sinh sống và nỗi bình yên của chúng. Tôi cho rằng đây là một trong những điều đáng giá để suy nghĩ, trong mục đích cứu vãn Huế.
Tôi rất thích đi bộ thong thả dọc theo đường Ngô Quyền, con đường nhỏ yên tĩnh qua trước cổng trường Đại học Y bao giờ cũng thấy loáng thoáng bóng áo trắng của người thầy thuốc, và vào bất cứ giờ nào trong ngày, dưới tầng lá khép kín của hai hàng phượng, con đường vẫn râm mát như đi qua dưới một mái nhà. Và bao giờ cũng thế, tôi vẫn gặp lại chúng, những con chim sẻ nhảy nhót, đùa chơi trên mặt đường, rất dạn người, chỉ khẽ nhảy tránh khi bước chân tôi ngang qua. Vẻ vô tư của chúng làm tôi xúc động lạ thường: hình như tuổi - chim sẻ của tôi vẫn còn lại đâu đó, đang mê mải đánh bi bên vệ đường; tôi nhìn thấy nơi những chú chim nhỏ kia cái mà ký ức mùa tựu trường của Anatole France gọi là "bóng dáng của tôi hai mươi lăm năm về trước”.
Vào khoảng giữa buổi sáng vẫn thường có một bầy sẻ năm bảy con ở đâu bay đến kiếm ăn nơi hành lang trước cửa sổ nhà tôi, ở đó tôi đã vãi một nhúm gạo nhỏ dành sẵn cho chúng; lân la quen dần đến nỗi chúng vào hẳn trong nhà, quanh quẩn ngay chỗ tôi ngồi làm việc. Thế rồi một hôm đang mải viết thình lình tôi nghe một tiếng "đoàng" vang lên nơi vòm lá cây long não trước hành lang, bầy chim sẻ đang nhặt gạo gần đấy cất cánh bay vù đi như những bóng nắng. Nhìn xuống đường, tôi thấy một gã du đãng đang vác súng bắn chim lững thững bỏ đi. Lũ trẻ con nhặt mang lên cho tôi xem chiến lợi phẩm của gã để lại dưới gốc cây long não, một con chim én lạc lõng nào đã bị bắn chết, mấy giọt máu rỉ ra trên cái ức đen xanh của nó. Điều đáng buồn là từ hôm có tiếng súng nổ, bầy chim sẻ đã không trở lại trước cửa sổ phòng tôi nữa, chuyện vừa mới xảy ra trong mùa xuân vừa qua. Mong sao lũ chim nhỏ đáng yêu của tôi đừng giữ một kỷ niệm xấu về tôi, rằng chính tôi đã giăng sẵn một cái bẫy để định giết chúng.
Nói đúng ra, những năm sau này tôi vẫn còn niềm vui đứng lại bên đường ngắm chim anh vũ bay về. Đó là loài chim keo nhỏ, lông rất đẹp, từ vùng núi về Thành phố vào mùa trái gội chín, thường là vào thời kỳ từ lễ Vu lan đến trước Tết Nguyên Đán. Đàn anh vũ sà xuống những cây gội, và bắt đầu ngắm vũ bộ tuyệt vời của chúng: từng con bước đĩnh đạc dọc theo cành cây đến tận mút cành, xoay nửa vòng nằm ngửa mặt lên trời, chỉ giữ mình bằng hai chân níu cành theo thế đánh đu, và cứ thế nhấp nháp những trái gội chín đỏ. Ăn xong, chim anh vũ buông mình rơi tự do trong không và thoắt một cái, tung cánh bay ngược lên, cả đàn chim như một trận lá bốc lên trong gió, đẹp mê hồn. Thế rồi một lần, tai họa đã đến với chúng, ngay trước mắt tôi. Dưới cây gội đầu đường, một gã cần chất đạm nào đó chợt hiện ra, giương súng săn lia đạn vào đàn chim; chúng hoảng hốt bay tạt sang đường Trương Định nơi có khu tập thể của sở Thể Dục Thể Thao. Thật bất hạnh cho chúng, một gã xạ thủ khác chừng đã phục sẵn lại xả đạn vào bầy chim. Lũ anh vũ hoảng loạn mất phương hướng cứ thế bay lui bay tới giữa hai làn đạn, rơi lả tả xuống mặt đường như khế rụng. Trời ơi! Ước chi có một luật pháp nào của nền văn minh cho tôi quyền tước súng của hai kẻ dã man, và chính tôi sẽ đưa họ ra tòa về tội tàn sát thiên nhiên. Nhưng mà tôi bất lực. Sau cuộc thảm sát lần ấy, ba năm qua mùa thu nào tôi cũng trở lại chốn cũ thử xem: trái gội vẫn chín đỏ trên cành, nhưng giống như bầy sẻ nhà tôi, chim anh vũ không về nữa. Có lẽ đó là đàn anh vũ cuối cùng đã bỏ Huế mà đi.
Có lần tôi đến thăm Schwerin, một tỉnh có thiên nhiên rất đẹp của nước Đức, được du khách gọi là "Thành phố Đồi và Hồ". Mùa đông, Schwerin có hai loài chim đã trở thành bạn thân của con người: Chim nhạn và thiên nga. Cứ vào giờ ăn, bên ngoài cửa kính khách sạn lại xập xòa những chú chim nhạn bầu bĩnh với bộ lông mịn xốp màu xám tro. Tôi phải mở cửa tặng cho chúng một nắm vụn bánh mì, chúng mổ ăn ngay trong lòng bàn tay tôi, ăn xong vẫn đậu yên trên bậu cửa sổ, rất lịch sự, để chờ nhận được quà tiếp theo. Thiên nga thì đông đảo ở ven các hồ, thậm chí trên các lối đi qua công viên, người ta phải cắm những bảng hiệu giao thông vẽ hình một con chim nhỏ, lưu ý người đi dạo cẩn thận để khỏi dẫm phải những thiên nga con đang lẫm chẫm theo mẹ, tìm ăn những quả dâu đỏ kết thành chuỗi dài buông xuống sát mặt tuyết. Giống như những đứa trẻ bán vé số trong các quán ăn ở ta, cứ hễ thấy người lạ vừa đến ngồi nơi ghế đá là mẹ con thiên nga dắt nhau tới đòi ăn, và du khách nào cũng có sẵn trong túi mấy gói thức ăn bán sẵn trong công viên để làm quà cho chim, chim nhạn sinh sống ngay trong thành phố nhưng đến mùa sinh đẻ lại bay đi làm tổ ở một vùng thung lũng khác; còn thiên nga chỉ là kiều dân nhưng mùa đông lại về thành phố này để đẻ trứng ấp con. Vì thế cứ đến đầu mùa đông, người dân Schwerin lại tự đề ra thêm bổn phận gia đình phải lo cho chúng, bằng cách đóng những chiếc chuồng bằng gỗ giúp thiên nga trú đông. Quanh các bờ hồ Schwerin những căn nhà gỗ xinh xắn, đủ kiểu màu xếp cạnh nhau rất đẹp mắt, giống như những khách sạn phục vụ không tiền dành sẵn cho những gia đình chim. Ôi người dân Schwerin đã biết đối xử với thiên nhiên một cách có văn hóa như thế, mặc dù tôi đang thăm chơi ở một thành phố nhỏ của nước Đức, đang tiếp tục xây cất, và chưa bao giờ được UNESCO xếp hạng là "di sản văn hóa chung của nhân loại" giống như Huế của tôi.
Tôi có nói rằng thành phố Huế mang một giai điệu tâm hồn riêng, hài hòa tươi sáng như thiên nhiên quả là hơi thở của thiên nhiên, và có lẽ là một cái gì đó thuộc về âm nhạc của MOZART. Thế nhưng bây giờ, suốt một con đường đẹp nhất Huế là đường Lê-Lợi, cứ cách năm bảy chục mét lại mọc lên một điểm viđêô hoặc là một quán nước, từ đó dấy lên tiếng ồn của nhạc disco và nhiêu thứ rền rĩ tái bản của Sài Gòn mấy chục năm về trước: thời đó báo chí miền Nam đã chửi là: "Nhạc mari sến”. Lưu ý rằng đường Lê-Lợi chỉ toàn là cơ quan Nhà nước. Và chính đó là "giai điệu mới" đang chiếm lĩnh thành phố Huế. Chao ôi! Âm nhạc mà đến thế thì cả MOZART cũng phải bỏ đi huống chi là chim! Chợt nhớ lại một câu văn bia của lăng Tự Đức, đại thể: "Ta trồng nơi đây thật nhiều cây để gọi chim về, chim nào thấy vui thì cứ đến ở". Lại lưu ý rằng đây là văn bản được xem là thiêng liêng khắc trên đá hoa cương trước mộ của một trong những ông vua quyền lực nhất của nhà Nguyễn. Dù tàn bạo khét tiếng trong nghề đàn áp, hóa ra trong nghệ thuật kiến trúc của kinh thành Huế, Tự Đức lại là một nhà nhân đạo chủ nghĩa đi trước thời đại của ông biết bao nhiêu.
Dù sao, vẫn còn một cố gắng đơn độc nhằm bảo vệ loài chim ở Huế, nơi Hội những người Nuôi chim, vừa thành lập cách đây hai năm. Buổi lễ ra mắt thật là long trọng, có cả quốc kỳ, khẩu hiệu đỏ và diễn văn yêu cầu "Lãnh đạo quan tâm"; một vị cán bộ hưu trí vừa nhập hội ngồi cạnh tôi lấy thế làm khó chịu, nói càu nhàu: "Chẳng lẽ bây giờ người ta lại còn yêu cầu lãnh đạo luôn cả chim nữa à?" Câu phàn nàn của ông làm tôi bật cười. Nhưng chợt nghĩ lại nhiều điều trên mảnh đất cố đô này, tôi trả lời ông rất nghiêm chỉnh:
- Nhiều khi cũng đúng như thế thật. Cả vua Tự Đức cũng không coi việc chim là việc nhỏ. Chẳng thế mà người ta lại nói: "Đất lành chim đậu".
Huế, tháng 6 năm 1990
H.P.N.T.
(TCSH44/01-1991)
PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.