Tạp chí văn nghệ các tỉnh miền Trung - những điểm sáng của tính độc đáo văn hoá

14:49 20/08/2008
PHẠM TIẾN DUẬT1.Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, khi nghiên cứu về dân tộc học, có luận điểm cho rằng, trong quá trình định cư dần dà từ Bắc vào Nam, các cộng đồng, một cách tự nhiên, hình thành từng vùng thổ âm khác nhau.

Giọng Nghệ Tĩnh không giống với giọng Thanh Hoá, giọng Quảng Bình không giống với giọng Thừa Thiên. Việc chuyển dịch cư dân từ Bắc vào chủ yếu diễn ra với người Kinh. Mỗi địa phương từ xưa đã sẵn có cư dân của các dân tộc thiểu số với những bản sắc riêng. Và sự hoà trộn văn hoá ở mỗi vùng đất cũng diễn ra theo những chu trình không hoàn toàn giống nhau. Chính bởi vậy, các tỉnh Miền Trung không chỉ là những đơn vị hành chính Nhà nước mà còn là những khu vực văn hoá, đến mức, các độc giới hành chính có biến dịch thì các khu vực văn hoá ấy vẫn tồn tại một cách vững bền. Có thể coi đây là đặc điểm thứ nhất về văn hoá các tỉnh Miền Trung.
Đặc điểm thứ hai về lịch sử văn hoá Miền Trung cũng gắn liền với địa lý và lịch sử. Đây là con đường nối Bắc và và hầu hết các biến động lớn, các cuộc chiến tranh lớn đều thổi qua Miền Trung. Miền Trung là sự kết dính bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt , đặc biệt là thông qua chiến tranh. Dãy Trường Sơn chạy dọc phía tây các tỉnh Miền Trung là một ví dụ lớn.
Đặc điểm thứ ba về văn hoá Miền Trung gắn liền với vị trí địa lý kinh tế. Hình khe, thế núi thất thường quá, thời tiết khắc nghiệt quá. Cái nghèo, cái khổ của bất kỳ nơi nào trên hành tinh đều là các mảnh đất sinh thành các triết nhân và các thi sĩ.
Chúng ta nói tới việc xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nói đến cả các giải pháp cụ thể, trên những địa bàn cụ thể và trong những hoàn cảnh cụ thể. Bởi vậy, khi nghĩ đến văn nghệ của mỗi tỉnh Miền Trung, chúng tôi thấy dâng lên trong lòng mình niềm tự hào và nhận ra rằng, ở mỗi quần cư ở mỗi vùng, còn tồn chứa biết bao kho báu với tính độc đáo văn hoá mà không thể lấy gì thay thế được.
2.
Tạp chí văn nghệ của mỗi một tỉnh là cơ quan văn hoá và ngôn luận hàng đầu về văn nghệ của địa phương. Tạp chí là nơi chuyển tải các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về văn hoá văn nghệ tới các đồng nghiệp và bạn đọc. Đó là nơi công bố tác phẩm nhanh nhất cho mỗi tác giả công tác tại địa phương, đặc biệt là các tác phẩm phản ảnh đời sống của chính địa phương. Đó là nơi thử tài của các cây bút mới. Đó là cơ quan ngôn luận hàng đầu công bố các công trình nghiên cứu về văn hoá học, nghệ thuật học, văn học và đặc biệt là các nghiên cứu văn nghệ địa phương mang tính “đặc sản”. Tạp chí văn nghệ các tỉnh còn là nơi đào tạo, bồi dưỡng và tập hợp lực lượng, thường xuyên bổ sung vào đội ngũ của địa phương và văn nghệ cả nước những nhân tài mới.
Chính vì những lẽ trên đây mà tạp chí văn nghệ các tỉnh Miền Trung nói riêng và tạp chí văn nghệ các địa phương trên cả nước nói chung là những cơ quan văn hoá và ngôn luận mà không có gì thay thế được.
Trên nhận thức ấy, với tư cách là một đồng nghiệp, chúng tôi nhiệt liệt hoan nghênh và chào mừng cuộc gặp gỡ bàn bạc lần này giữa 6 tạp chí Miền Trung: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế. Có lẽ chính các nhà lãnh đạo của Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam và chính các đồng chí đã nhận ra rằng, bên cạnh những điểm riêng biệt, các đồng chí có vô số điểm giống nhau, cái thuận giống nhau và đặc biệt là các khó khăn phải tháo gỡ cũng nhiều điểm giống nhau. Bên cạnh đó, việc liên kết về sáng tác, trao đổi người viết, trao đổi bản thảo, liên kết tuyên truyền văn nghệ, liên kết phát hành, liên kết quảng cáo và nhiều việc khác, hoàn toàn có thể bàn bạc và đi đến khả thi.
3.
Như đã có nhận xét rằng, đất Bắc là đất của tiểu thuyết, Miền Trung là của thơ ca và Nam Bộ là đất của báo chí. Đến nay cũng vậy, sáng tác thơ là mặt mạnh nhất của các tạp chí văn nghệ Miền Trung. (Cũng xin được nói rằng, chúng tôi được đọc đều đặn tạp chí của các đồng chí trừ tạp chí Xứ Thanh của Thanh Hoá, chúng tôi không có để đọc). Mặt mạnh thứ hai mới đến văn xuôi. Cũng như tờ Tuần báo Văn nghệ mà thực chất là tuần báo văn học; tờ tạp chí Văn nghệ quân đội nội dung chính cũng là văn học. Tỉ lệ văn học trên các tờ tạp chí Miền Trung hiện nay chiếm gần hết số trang. Điều này đã hợp lý hay chưa, chúng ta cũng cần tiếp tục suy ngẫm. Điều đáng nói nhất là việc đầu tư cho khảo cứu nghệ thuật, sưu tầm, phân loại, phê bình nghệ thuật của ta còn quá yếu kém. Ơ các hội chuyên ngành ở Trung ương việc này còn yếu kém, huống hồ ở các tỉnh Miền Trung còn biết bao khó khăn. Gặp những bài viết như các bài về hát Phường Vải Nam Đàn trên tạp chí Sông Lam, hay bài nghiên cứu Đám rước linh hồn của người Bru – Vân Kiều trên tờ Nhật Lệ, một bài viết sâu về triển lãm tượng trên Sông Hương, chúng tôi và có lẽ các bạn đọc khác của cả nước rất chăm chú đọc và tham khảo được nhiều. Chúng tôi muốn có được thông tin nhiều hơn về văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số của mỗi tỉnh. Tôi nghĩ rằng đây là một kho tàng lớn chưa khai thác được nhiều. Chúng tôi cũng muốn biết chân dung các nghệ sĩ nhân dân (nếu có), nghệ sĩ ưu tú, các nghệ nhân, nghệ sĩ của mỗi địa phương, các tiết mục và hoạt động biểu diễn của các đoàn nghệ thuật. Nếu mở rộng sang phía nghệ thuật, các đồng chí sẽ đề xuất được nhiều vấn đề hơn, số cộng tác viên và bạn đọc cũng đa dạng hơn. Không được đều kỳ lắm, nhưng trên cả 5 tờ mà tôi theo dõi, thấy các anh các chị có làm các trang văn học cho các em, các trang văn học cho nhà trường. Đây là điều quan trọng có tầm chiến lược, vì đấy chính là môi trường hôm nay và môi trường tương lai của văn học nghệ thuật. Có lẽ không chỉ là thơ, học sinh vẽ thế nào, học sinh học hát thế nào, khuôn thẩm mỹ của các em, các cháu ra sao, các tạp chí văn nghệ cũng có phần trách nhiệm. “Đưa hệ thống nhà trường vào cuộc” là bài toán đúng trên rất nhiều phương diện.
Bên cạnh việc nâng cao tính chuyên nghiệp của nghề làm báo, nâng cao chất lượng sáng tác và phê bình văn nghệ, ở mỗi tỉnh, chúng tôi nghĩ rằng, tìm cho ra, khảo cứu cho giỏi, tuyên truyền cho rộng tính độc đáo văn hoá của mỗi một vùng đất là thiên chức rất quan trọng của mỗi tờ tạp chí với tư cách là mỗi điểm sáng trên dọc dài đất nước. Xin kính chúc mỗi tờ tạp chí ngày càng giàu về bài, giàu về lực lượng và giàu có về tài chính. Chúc sự hợp tác giữa chúng ta ngày một thêm tốt đẹp.
P.T.D
(nguồn: TCSH số 159 - 05 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN VĂN VINH                                 Bút kýAi về cầu ngói Thanh ToànCho em về với một đoàn cho vui

  • NGUYỄN NHÃ TIÊN                         Bút ký"Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ. Hưng tộ diên trường ức vạn xuân". Nghĩa là: đất nước Hồng Lam sau ta năm trăm năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân.Không hiểu những tương truyền về "sấm ký" Trạng Trình "ứng nghiệm" đến dường nào, đâu là nguyên bản và thực hư ra sao? Có điều, chúng tôi đang viếng thăm làng quê Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo - quê hương của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đúng vào cái khoảng thời gian "sau năm trăm năm" ấy, và nhất là vào giữa cái kỳ gian mà đất nước đang từng ngày" Hưng tộ diên trường ức vạn xuân".

  • TRẦN HOÀNGTrong tiếng Việt, từ "Văn vật" là một từ thuộc nhóm từ gốc Hán và cùng tồn tại song song với các từ: Văn hoá, Văn hiến, Văn minh. Người xưa thường dùng từ này để nói, viết về truyền thống văn hoá của một vùng đất, hoặc của một địa phương. Chẳng hạn, lâu nay, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã có câu: "Thăng Long là đất ngàn năm văn vật". Song có lẽ từ "Văn vật" xuất hiện nhiều nhất trong các cụm từ "làng văn vật", "danh hương văn vật". Điều này cho thấy từ xa xưa, tổ tiên ta đã rất quan tâm đến "văn hoá làng" và "làng văn hoá".

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử loài người, có những bức tranh, những pho tượng lấp lánh toả ánh hào quang lặng im của chúng trong sự lâu bền của năm tháng. Có những ký ức có thể thi gan cùng vĩnh cửu. Nhưng có lẽ, ngôn từ có sức mạnh riêng mà không một thách thức nào, dù là của không gian hay thời gian có thể làm nhạt nhoà những âm vang của nó. Tất nhiên, một khi nó đã đi vào trái tim và khối óc của con người. 1034 chữ của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một trong những áng ngôn từ có sức sống bền vững với thời gian như thế.

  • TRẦN QUỐC TOẢN Tôi sinh ra và lớn lên giữa làng Hến bé nhỏ bên bờ sông La xã Đức Tân (tức Trường Sơn ngày nay) huyện Đức Thọ - tỉnh Hà Tĩnh. Qua sự nhọc nhằn của cha, vất vả của mẹ đã đút mớm cho tôi từng thìa nước hến, bát cháo hến để rồi tôi lớn dần lên.

  • HỒ TƯNằm trên dải cát ven phá Tam Giang, từ xưa làng tôi cũng đã có một ngôi đình. Đến năm 1946, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, Chính quyền cách mạng đã vận động nhân dân triệt phá ngôi đình để tránh cho Tây khỏi làm nơi trú đóng.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Đất nước ta, miền Bắc và miền nối liền nhau bằng một dải đất dài và hẹp gọi là miền Trung. Dãy Trường Sơn chạy dọc biên giới phía Tây như một cột sống vươn những chi nhánh dài ra tận biển Đông, làm thành những đèo, trong đó hiểm trở là đèo Hải Vân.

  • PHAN THUẬN AN.Nhiều người từng đến Lăng Cô hoặc nghe nói đến địa danh Lăng Cô, nhưng ít ai biết rằng vua Khải Định là người phát hiện ra khu du lịch nghỉ mát này.Có thể nói vua Khải Định là ông vua thích du lịch nhất trong số 13 vị vua triều Nguyễn (1802- 1945). Trong đời mình, nhà vua đã đi du lịch nhiều nơi tring nước và cả nước ngoài nữa.

  • Thiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • Anh tôi đang giàu lên với nghề nuôi rắn độc, bị con hổ mang hỏi thăm vào tay. Mấy tiếng đồng hồ cáng tắt qua các cánh rừng đến bệnh viện huyện được cứu sống, nhưng vết thương bị hoại tử, hơn tháng sau mới xuất viện, tiêu tốn hơn chục triệu. Năm sau anh tôi lại bị chính con hổ mang ấy hỏi thăm ở tay kia. Lần này thì tôi đánh xe đi mời thầy thuốc rắn bản Lúng.

  • Đó là làng Lệ Mật thuộc xã Việt Hưng, (thị trấn Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Làng này có nghề nuôi bắt rắn, tới nay đã qua 900 năm.

  • Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, trải Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình.

  • "Sang Xuân ta sẽ ăn Tết khai hạ vào ngày mùng 7 tháng Giêng".     Vì sao vua Quang Trung dám tuyên bố cả quyết như trên trước mặt ba quân? Tất cả bí mật của cuộc hành binh khôi phục Thăng Long đều được "gói trọn" trong một chiếc bánh chưng.

  • LGT: Nhà văn Thái Vũ với những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Cờ nghĩa Ba Đình, Biến động - Giặc Chày Vôi, Huế 1885... nay đã gần 80. Tuổi già sức yếu song ông đã hoàn thành tập Hồi ức, gồm 4 phần dày dặn. Trong đấy phần II: HUẾ - QUẢNG NGÃI VÀ LK5 là những trang hồi ức đầy “xốn xang” trước và sau CM tháng Tám.Sông Hương xin trích đăng một phần nhỏ gửi tới bạn đọc nhân kỷ niệm ngày CM tháng Tám thành công và Quốc khánh 2 – 9. 

  • Nếu kể cả những công trình nghiên cứu văn hóa, địa lý, lịch sử có đề cập đến các địa danh ở các tỉnh Trung Trung Bộ thì xưa nhất phải kể đến “ Ô Châu cận lục” của Dương Văn An đời Mạc chép về sông núi, thành trì, phong tục của  xứ Thuận Quảng, từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Kế đến là “ Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn tập hợp những tài liệu về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa trong thời gian làm đô đốc xứ Thuận Hóa cuối thế kỷ 18.