Tản mạn về một nhà văn hóa lớn

08:25 12/08/2016

Năm 1992, trong một cuộc gặp gỡ trí thức văn nghệ sĩ ở Vinh, nhà văn Ngô Thảo nói với tôi “cụ Phan Ngọc là nhà văn hoá lớn hiện nay”, lúc này ông không còn trẻ những cũng chưa già.

GS Phan Ngọc

Tôi được trực tiếp gặp ông hai lần, môt lần với nhà văn Sơn Tùng ở Hà Nội, một lần với chị Phan Thị Quỳnh Trang ở TP. Vinh. Và chủ yếu là gặp ông trên nhiều lĩnh vực ở sách báo khi tìm hiểu học tập, với kết quả không là bao trong chiều rộng và chiều sâu những công trình đồ sộ của ông. Cuối cùng, chỉ đọng lại một vài kỷ niệm, thế cũng là có ích lắm rồi!

Ấn tượng đầu tiên gặp ông có lẽ là hai thuật ngữ “thao tác” và “mẹo”, - cũng là hai khái niệm, hai phương tiện xoáy sâu vào sự nghiệp nghiên cứu độc đáo của ông. Từ thao tác và mẹo riêng có, để tìm đến cách tiếp cận các công trình văn hoá bằng “thức nhận”, “vượt gộp” và “độ khúc xạ” một cách khúc chiết tư duy, giản dị ngôn ngữ. Ở ông, văn hóa trùm lên tất cả. Thật khó chọn một bộ môn nào là đối tượng chính mà ông chạm tới: Ngôn ngữ học, dân tộc học, triết học, mỹ học, hán học, chính trị, dịch thuật, văn học, lý luận phê bình…

Hãy đi qua dịch thuật. Có thể nói sau Trương Vĩnh Ký (thế kỷ 19), Phan Ngọc là một trong những người Việt thông thạo nhiều ngoại ngữ ở thế kỷ XX. Nghiên cứu văn hóa dân tộc nào ông dành mấy tháng học ngôn ngữ dân tộc đó, có gần vài chục trường hợp như thế. Những công trình dịch thuật kèm theo văn bản giới thiệu của ông đã cuốn hút nhiều tầng lớp bạn đọc. Xin nêu một vài tác phẩm lớn: Từ thần thoại Hy Lạp tiếng Hy Lạp, Spartacus tiếng Ý đến Đạo Đức Kinh, Sử Ký, Thơ Đỗ Phủ tiếng Hán; từ Shakespeare tiếng Anh đến Chiến tranh và Hòa bình tiếng Nga; từ mỹ học Hegel tiếng Đức đến kịch Molie tiếng Pháp… Chỉ nói riêng việc dịch thơ Đỗ Phủ đã thấy cảm hứng nhân văn của ông dâng lên đến mức nào. Khi tôi kinh ngạc ông đã dịch một nghìn bài thơ Đỗ Phủ đáng giá cả về chất lẫn lượng, ông nói:

- Một giáo sư Pháp gọi Đỗ Phủ là “nhà thơ nhân loại”. Đỗ Phủ viết về nỗi khổ của người dân ở 7 phương diện: vua, quan, nha, mưa, nắng, bão, lụt. Và mỗi phương diện có 7 bài tuyệt tác. Viết đúng cái huyệt cơ cực của dân. Tôi gọi Đỗ Phủ là “nhà thơ dân đen”. Bác Hồ đã dẫn thơ Đỗ Phủ trong Di chúc…

Song tìm ra cách tiếp cận mới văn hóa Việt Nam, đặc biệt qua truyện Kiều và tư tưởng Hồ Chí Minh mới là hướng chủ yếu của ông. Ông nói:

- Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh phải nói đến cái bất biến của tư tưởng này là đã kiên trì tìm đường cứu nước, là đã Việt Nam hóa được chủ nghĩa Mác Lê Nin khi “khúc xạ” qua tư tưởng Hồ Chí Minh để đem đến kết quả cho cách mạng Việt Nam. Bác Hồ theo chủ nghĩa Mác Lê Nin với thái độ của một người bình luận, khác hẳn một tín đồ. Đây chính là con đường “thức nhận” tỉnh táo phân biệt châu Á không phải là châu Âu, châu Âu không phải là toàn nhân loại. Mác nặng về kinh tế, Bác trích Mác ít, chỉ 45 lần, trong đó 5 lần trích nguyên văn, còn thì qua qua. Bác chú ý chữ Nhân, trích Khổng hơn 1.000 lần, cuối đời thăm viếng Khổng. Mác không chú ý, không rõ phương Đông. Lê Nin có chú ý phương Đông. Lê Nin mềm mại, có khả năng tập hợp. Stalin không có khả năng đó nên phải dùng bạo lực… Về mặt này, việc đấu tranh giai cấp ở ta được ông Nguyễn khẳng định không được diễn ra giống như ở phương Tây… Cái sơ lược của Mác - Lê nin là hạn chế làm ngoại thương, tuy Lê nin có kêu gọi học buôn bán… Phê phán là quan trọng, phương pháp làm là quan trọng. Trước lúc đánh Mỹ, Bác rất chú ý đề xuất của giáo sư Trần Đại Nghĩa: phải làm nhiều đường, làm nhiều thủy lợi nhỏ để bom địch không thể phá hết được. Bác đặc biệt quan tâm biện pháp, đã dự báo đúng nhiều sự kiện, để làm cái làm được, nên luôn luôn thắng. Suy nghĩ độc lập, hành động khôn khéo táo bạo, luôn luôn lấy nhân hoà làm sức mạnh quyết định. Đó là sự vượt gộp để bảo về chủ nghĩa Mác - Lê nin trong hoàn cảnh thế giới đương thời. Bây giờ Việt Nam là mục tiêu của cả Trung Quốc và Mỹ, - đó cũng là cơ hội, nhưng phải có minh quân, có tập thể minh quân đi theo con đường của Bác. Con đường đó là con đường văn hóa Việt Nam mà trước đây do hoàn cảnh khách quan đã không thực hiện được chu đáo. Nay hoàn cảnh thuận lợi không phải chịu sức ép lớn từ bên ngoài, Việt Nam sẽ đi đúng con đường của mình với văn hoá của chính mình. Còn gì hơn thế nữa!

Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, đặc biệt là về mảng nông thôn, ông đã rút ra được cái hồn cốt lâu đời để dẫn đến 7 điều hấp dẫn. Dân làng sinh ra trong quang cảnh nên thơ của làng; con người lao động chân bùn tay lấm, thuần phong mỹ tục, công dung ngôn hạnh; thơ ca và những lời khấn; đồ tế lễ trên bàn thờ gia tiên; hàng thủ công mỹ nghệ riêng có… và rải rác mồ mả, nghĩa địa làng. Ông nói và viết về những vấn đề này bâng quơ nhưng nặng trĩu, đầy ám ảnh. Văn hóa làng đã là sợi dây bền chắc níu kéo sự cố kết mọi người, mọi nhà, mọi họ tộc. Một cuộc đời, nhiều cuộc đời và những cuộc đời vĩnh viễn mất đi, - dù ai đi đâu, về đâu, thì cuối cùng đều nhận ra: chỗ quê hương đẹp hơn cả!

- Với Nghệ An. Tôi thấy Bác có để thì giờ viết hai bài phú. Tôi không am hiểu về phú, chỉ biết văn học ta có “phú Tây Hồ” của Chu Mạnh Trinh và “phú Bạch Đằng Giang” của Trương Hán Siêu. Gần đây có “phú Lôm Côm” của Sỹ Giàng - “làm thật ăn cháo, láo nháo ăn cơm”… có lẽ đây là một mạch riêng, được Bác viết với rất nhiều tâm huyết?

- Đúng vậy. Thời lều chõng ngày xưa, các sĩ tử thắng thua ở bài phú. Khó, nhưng hấp dẫn. Phú không phải là thơ. Phú là trình bày, là mục đích nói một tình hình. Đã trình bày thì phải có đối lập, nói cái này để ẩn một cái kia. Đằng sau cái kia là một cái này, rất cụ thể, sẽ tạo ra một sự suy nghĩ khác, đó là phương Đông. Một bài phú có 4 phần: khai, thừa, chuyển, hợp. 4 phần này lại phải tiếp tục đối nhau… Nhiều nhà Nho đã tự nhận có thể mê phú đến quên việc nước! Tôi tập làm phú theo sự bày vẽ của cha tôi. Bài thứ nhất viết về GS Đặng Thai Mai: “thông minh vượt chúng, bụng chứa đầy văn hóa Việt, Pháp, Hoa. Kiến thức trùm đời, chí nào sá thi thư văn, sử, triết…”, “đừng nói chết là hết, tấm gương nhân hậu trong thản nhiên lo khắc phục gian lao. Chớ bảo sống là yên, cuộc sống khiêm nhường, ngoài lặng lẽ, chứa đấu tranh quyết liệt…” để phần nào nhớ Thầy, biết ơn Thầy, danh nhân lớn người xứ Nghệ. Nhưng đến khi Tỉnh uỷ Nghệ An giao cho tôi viết bài phú làm “văn bia nghĩa trang liệt sĩ hữu nghị Việt Lào tại Anh Sơn” thì thực sự tôi cảm thấy rất hạnh phúc được thể hiện tình cảm đối với đất nước, trước “Sáu vạn thước vuông, mười nghìn nấm mộ”, “Bốn vạn người gục xuống để hai nước đứng lên, 50 năm trôi qua, khiến triệu nhà mong nhớ”, “Dựng tấm bia làm kỷ niệm, biết hạnh phúc có xương rơi, xây nghĩa trang nhắc toàn dân hiểu hòa bình nhờ máu đỏ”… tôi cũng có nhiều người thân trong số liệt sĩ này. Tình riêng tưởng đã lớn, mà lúc đứng trước nghĩa trang thấy nó nhỏ bé trong cái tình chung quá lớn lao. Những hy sinh này vì đâu, do đâu, chúng ta và con cháu phải luôn luôn hiểu và nhớ.

- Thưa bác, trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, có lúc dùng phương cách khu biệt hoặc trìu tượng hóa vấn đề; chính trị thì dựa vào phương châm “dĩ bất biết, ứng vạn biến”; còn địa bàn khoa học xã hội mênh mông trời đất, từ cái riêng kết lại cái chung, hoặc cái chung lẫn vào cái riêng. Trên “sa bàn thao tác” chắc bác đã có được những kiếm thuật rạch ròi?

- Vấn đề này rộng, tôi chỉ nêu một vài ý. Ví dụ khi nghiên cứu phê bình tác phẩm nào, thì không thể biết hết đối tượng, mà phải chọn một số trang, số dòng hay nhất của họ thể hiện họ nhiều nhất, để mổ xẻ, để nêu bật - điều này dễ hiểu. Còn về sáng tác, điều quan trọng nhất là phải có “cái góc” của anh, cái góc đó không ai hơn anh được, để viết. Có khi 20 đến 30 năm sau mới công bố, và nó sẽ sống. Sinh thời sẽ đụng chạm, không đụng chạm thì không có giá. Khoa học, nghệ thuật là sự đụng chạm. Cái góc của Mác là tư bản. Mác lấy cái góc tư bản từ Ăng Ghen là một trong ba nhà tư bản lớn nhất ở Đức nên không ai hơn ông ấy được về vấn đề này, vấn đề tư bản. Mỗi người phải tự xác định cái góc của mình trước khi viết tác phẩm chủ yếu. Tôi có cái góc của tôi, dù tôi vẫn viết được về văn học phương Tây, không kém người ta lắm. Nhưng tôi chỉ là tôi khi tôi chọn viết Nho giáo, và khó ai hơn tôi được. Nhân đây tôi có nhận xét là cuốn Chân trời lạ của anh hay, Hoa đại thì phảng phất Nhặt cánh hoa tàn của Lỗ Tấn,… Nhưng cái góc của anh phải là Quỳnh Lưu, nơi thể hiện cái chất hùng, bi, hài và có cả chút cực đoan của cả một thời, của cả chế độ. Cả nước tập trung đầy đủ nhất ở đó. Anh viết đi, tôi sẽ đề tựa cho!

- Thưa bác, chị họ tôi - PGS, Nhà văn Đặng Thị Hạnh chuyên gia hàng đầu văn học Pháp cũng khuyên tôi như thế. Nhưng tôi đâu dám! Rất tiếc là anh Nguyễn Minh Châu chỉ mới chớm vào,… Bác có nói ông thân của bác (cụ Phó bảng Phan Võ) và ông nội tôi (cụ cử nhân Hồ Phi Huyền) là hai người giỏi chữ Nho hơn cả người Tàu?

 - Đúng thế. Đã có lần tôi viết cha tôi rất trọng thị ông nội anh dám chống lại truyền thống khi thấy những điều không hợp. Ví dụ, việc phủ định thuyết ngũ hành trong y học: Y lý không dựa vào ngũ hành, các vị thuốc cũng vậy, dược tính là dược tính, y lý là y lý. Phải xét riêng từng trường hợp,…

Còn về tác phẩm Nhân đạo quyền hành của cụ viết trước Cách mạng Tháng Tám, thì đây là một khát vọng rất lớn, chưa nói nó đúng hay nó sai, khi muốn xây dựng một đạo đức học cho thời đại mình xuất phát ngay từ bản chất con người. Hơn nữa, đó là điều đạo đức học phương Tây xưa chưa làm được, trước sau họ đều xuất phát từ một ý niệm có sẵn chưa được kiểm chứng trong thực tế, giống như xuất phát từ một tiêu đề. Cho nên thiếu tính phổ quát cần thiết chung cho con người, với tính cách con người, được xem là lý do biện hộ cho nó… Tôi chỉ nói qua tác phẩm này về mặt phương pháp luận của cụ Hồ Phi Huyền - một nhà tư tưởng hiếm có trong tầng lớp Nho học xưa,…

Trong sự uyên thâm, phát sáng nghiên cứu văn hóa, đôi khi Phan Ngọc cũng có chút “nghênh ngang” như Nguyễn Tuân trong văn học, ở một tỷ lệ nào đó, ở một vài bóng dáng nào đó mang cốt cách phương Đông. Ông đã tiếp xúc và thuyết giảng nhiều lần ở các Đại học Mỹ, phương Tây, Trung Quốc, Đông Nam Á. Một lần, ở Hồng Kông, vị học giả trưởng lão Nhiêu Tông Di đáng kính của Đôn Hoàng học, vốn biết Phan Ngọc cao đạo dịch Đạo Đức Kinh (dễ hiểu) của Lão Tử, và là một người Việt Nam thuộc hơn 1.000 bài thơ Đường, điều mà không có một người Trung Quốc nào làm được như vậy - đã đích thân xuống núi đàm đạo tri kỷ,…

Trên mặt bằng chung, sự lo ngại “Những chân trời không có người bay” dường như được yên tâm hơn, khi có những đôi cánh nghiên cứu độc đáo với cách tiếp cận hiện đại như Phan Ngọc, là rất cần thiết, để góp phần xác lập tầm nhìn văn hóa Việt Nam - một tầm nhìn tự tin, có bệ phóng bản sắc dân tộc vững vàng, tung cánh vào bầu trời hội nhập.

ĐạiLải - Hè 2016
Nguồn: Hồ Phi Phục - VHNA




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)

  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.