Năm 1992, trong một cuộc gặp gỡ trí thức văn nghệ sĩ ở Vinh, nhà văn Ngô Thảo nói với tôi “cụ Phan Ngọc là nhà văn hoá lớn hiện nay”, lúc này ông không còn trẻ những cũng chưa già.
GS Phan Ngọc
Tôi được trực tiếp gặp ông hai lần, môt lần với nhà văn Sơn Tùng ở Hà Nội, một lần với chị Phan Thị Quỳnh Trang ở TP. Vinh. Và chủ yếu là gặp ông trên nhiều lĩnh vực ở sách báo khi tìm hiểu học tập, với kết quả không là bao trong chiều rộng và chiều sâu những công trình đồ sộ của ông. Cuối cùng, chỉ đọng lại một vài kỷ niệm, thế cũng là có ích lắm rồi!
Ấn tượng đầu tiên gặp ông có lẽ là hai thuật ngữ “thao tác” và “mẹo”, - cũng là hai khái niệm, hai phương tiện xoáy sâu vào sự nghiệp nghiên cứu độc đáo của ông. Từ thao tác và mẹo riêng có, để tìm đến cách tiếp cận các công trình văn hoá bằng “thức nhận”, “vượt gộp” và “độ khúc xạ” một cách khúc chiết tư duy, giản dị ngôn ngữ. Ở ông, văn hóa trùm lên tất cả. Thật khó chọn một bộ môn nào là đối tượng chính mà ông chạm tới: Ngôn ngữ học, dân tộc học, triết học, mỹ học, hán học, chính trị, dịch thuật, văn học, lý luận phê bình…
Hãy đi qua dịch thuật. Có thể nói sau Trương Vĩnh Ký (thế kỷ 19), Phan Ngọc là một trong những người Việt thông thạo nhiều ngoại ngữ ở thế kỷ XX. Nghiên cứu văn hóa dân tộc nào ông dành mấy tháng học ngôn ngữ dân tộc đó, có gần vài chục trường hợp như thế. Những công trình dịch thuật kèm theo văn bản giới thiệu của ông đã cuốn hút nhiều tầng lớp bạn đọc. Xin nêu một vài tác phẩm lớn: Từ thần thoại Hy Lạp tiếng Hy Lạp, Spartacus tiếng Ý đến Đạo Đức Kinh, Sử Ký, Thơ Đỗ Phủ tiếng Hán; từ Shakespeare tiếng Anh đến Chiến tranh và Hòa bình tiếng Nga; từ mỹ học Hegel tiếng Đức đến kịch Molie tiếng Pháp… Chỉ nói riêng việc dịch thơ Đỗ Phủ đã thấy cảm hứng nhân văn của ông dâng lên đến mức nào. Khi tôi kinh ngạc ông đã dịch một nghìn bài thơ Đỗ Phủ đáng giá cả về chất lẫn lượng, ông nói:
- Một giáo sư Pháp gọi Đỗ Phủ là “nhà thơ nhân loại”. Đỗ Phủ viết về nỗi khổ của người dân ở 7 phương diện: vua, quan, nha, mưa, nắng, bão, lụt. Và mỗi phương diện có 7 bài tuyệt tác. Viết đúng cái huyệt cơ cực của dân. Tôi gọi Đỗ Phủ là “nhà thơ dân đen”. Bác Hồ đã dẫn thơ Đỗ Phủ trong Di chúc…
Song tìm ra cách tiếp cận mới văn hóa Việt Nam, đặc biệt qua truyện Kiều và tư tưởng Hồ Chí Minh mới là hướng chủ yếu của ông. Ông nói:
- Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh phải nói đến cái bất biến của tư tưởng này là đã kiên trì tìm đường cứu nước, là đã Việt Nam hóa được chủ nghĩa Mác Lê Nin khi “khúc xạ” qua tư tưởng Hồ Chí Minh để đem đến kết quả cho cách mạng Việt Nam. Bác Hồ theo chủ nghĩa Mác Lê Nin với thái độ của một người bình luận, khác hẳn một tín đồ. Đây chính là con đường “thức nhận” tỉnh táo phân biệt châu Á không phải là châu Âu, châu Âu không phải là toàn nhân loại. Mác nặng về kinh tế, Bác trích Mác ít, chỉ 45 lần, trong đó 5 lần trích nguyên văn, còn thì qua qua. Bác chú ý chữ Nhân, trích Khổng hơn 1.000 lần, cuối đời thăm viếng Khổng. Mác không chú ý, không rõ phương Đông. Lê Nin có chú ý phương Đông. Lê Nin mềm mại, có khả năng tập hợp. Stalin không có khả năng đó nên phải dùng bạo lực… Về mặt này, việc đấu tranh giai cấp ở ta được ông Nguyễn khẳng định không được diễn ra giống như ở phương Tây… Cái sơ lược của Mác - Lê nin là hạn chế làm ngoại thương, tuy Lê nin có kêu gọi học buôn bán… Phê phán là quan trọng, phương pháp làm là quan trọng. Trước lúc đánh Mỹ, Bác rất chú ý đề xuất của giáo sư Trần Đại Nghĩa: phải làm nhiều đường, làm nhiều thủy lợi nhỏ để bom địch không thể phá hết được. Bác đặc biệt quan tâm biện pháp, đã dự báo đúng nhiều sự kiện, để làm cái làm được, nên luôn luôn thắng. Suy nghĩ độc lập, hành động khôn khéo táo bạo, luôn luôn lấy nhân hoà làm sức mạnh quyết định. Đó là sự vượt gộp để bảo về chủ nghĩa Mác - Lê nin trong hoàn cảnh thế giới đương thời. Bây giờ Việt Nam là mục tiêu của cả Trung Quốc và Mỹ, - đó cũng là cơ hội, nhưng phải có minh quân, có tập thể minh quân đi theo con đường của Bác. Con đường đó là con đường văn hóa Việt Nam mà trước đây do hoàn cảnh khách quan đã không thực hiện được chu đáo. Nay hoàn cảnh thuận lợi không phải chịu sức ép lớn từ bên ngoài, Việt Nam sẽ đi đúng con đường của mình với văn hoá của chính mình. Còn gì hơn thế nữa!
Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, đặc biệt là về mảng nông thôn, ông đã rút ra được cái hồn cốt lâu đời để dẫn đến 7 điều hấp dẫn. Dân làng sinh ra trong quang cảnh nên thơ của làng; con người lao động chân bùn tay lấm, thuần phong mỹ tục, công dung ngôn hạnh; thơ ca và những lời khấn; đồ tế lễ trên bàn thờ gia tiên; hàng thủ công mỹ nghệ riêng có… và rải rác mồ mả, nghĩa địa làng. Ông nói và viết về những vấn đề này bâng quơ nhưng nặng trĩu, đầy ám ảnh. Văn hóa làng đã là sợi dây bền chắc níu kéo sự cố kết mọi người, mọi nhà, mọi họ tộc. Một cuộc đời, nhiều cuộc đời và những cuộc đời vĩnh viễn mất đi, - dù ai đi đâu, về đâu, thì cuối cùng đều nhận ra: chỗ quê hương đẹp hơn cả!
- Với Nghệ An. Tôi thấy Bác có để thì giờ viết hai bài phú. Tôi không am hiểu về phú, chỉ biết văn học ta có “phú Tây Hồ” của Chu Mạnh Trinh và “phú Bạch Đằng Giang” của Trương Hán Siêu. Gần đây có “phú Lôm Côm” của Sỹ Giàng - “làm thật ăn cháo, láo nháo ăn cơm”… có lẽ đây là một mạch riêng, được Bác viết với rất nhiều tâm huyết?
- Đúng vậy. Thời lều chõng ngày xưa, các sĩ tử thắng thua ở bài phú. Khó, nhưng hấp dẫn. Phú không phải là thơ. Phú là trình bày, là mục đích nói một tình hình. Đã trình bày thì phải có đối lập, nói cái này để ẩn một cái kia. Đằng sau cái kia là một cái này, rất cụ thể, sẽ tạo ra một sự suy nghĩ khác, đó là phương Đông. Một bài phú có 4 phần: khai, thừa, chuyển, hợp. 4 phần này lại phải tiếp tục đối nhau… Nhiều nhà Nho đã tự nhận có thể mê phú đến quên việc nước! Tôi tập làm phú theo sự bày vẽ của cha tôi. Bài thứ nhất viết về GS Đặng Thai Mai: “thông minh vượt chúng, bụng chứa đầy văn hóa Việt, Pháp, Hoa. Kiến thức trùm đời, chí nào sá thi thư văn, sử, triết…”, “đừng nói chết là hết, tấm gương nhân hậu trong thản nhiên lo khắc phục gian lao. Chớ bảo sống là yên, cuộc sống khiêm nhường, ngoài lặng lẽ, chứa đấu tranh quyết liệt…” để phần nào nhớ Thầy, biết ơn Thầy, danh nhân lớn người xứ Nghệ. Nhưng đến khi Tỉnh uỷ Nghệ An giao cho tôi viết bài phú làm “văn bia nghĩa trang liệt sĩ hữu nghị Việt Lào tại Anh Sơn” thì thực sự tôi cảm thấy rất hạnh phúc được thể hiện tình cảm đối với đất nước, trước “Sáu vạn thước vuông, mười nghìn nấm mộ”, “Bốn vạn người gục xuống để hai nước đứng lên, 50 năm trôi qua, khiến triệu nhà mong nhớ”, “Dựng tấm bia làm kỷ niệm, biết hạnh phúc có xương rơi, xây nghĩa trang nhắc toàn dân hiểu hòa bình nhờ máu đỏ”… tôi cũng có nhiều người thân trong số liệt sĩ này. Tình riêng tưởng đã lớn, mà lúc đứng trước nghĩa trang thấy nó nhỏ bé trong cái tình chung quá lớn lao. Những hy sinh này vì đâu, do đâu, chúng ta và con cháu phải luôn luôn hiểu và nhớ.
- Thưa bác, trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, có lúc dùng phương cách khu biệt hoặc trìu tượng hóa vấn đề; chính trị thì dựa vào phương châm “dĩ bất biết, ứng vạn biến”; còn địa bàn khoa học xã hội mênh mông trời đất, từ cái riêng kết lại cái chung, hoặc cái chung lẫn vào cái riêng. Trên “sa bàn thao tác” chắc bác đã có được những kiếm thuật rạch ròi?
- Vấn đề này rộng, tôi chỉ nêu một vài ý. Ví dụ khi nghiên cứu phê bình tác phẩm nào, thì không thể biết hết đối tượng, mà phải chọn một số trang, số dòng hay nhất của họ thể hiện họ nhiều nhất, để mổ xẻ, để nêu bật - điều này dễ hiểu. Còn về sáng tác, điều quan trọng nhất là phải có “cái góc” của anh, cái góc đó không ai hơn anh được, để viết. Có khi 20 đến 30 năm sau mới công bố, và nó sẽ sống. Sinh thời sẽ đụng chạm, không đụng chạm thì không có giá. Khoa học, nghệ thuật là sự đụng chạm. Cái góc của Mác là tư bản. Mác lấy cái góc tư bản từ Ăng Ghen là một trong ba nhà tư bản lớn nhất ở Đức nên không ai hơn ông ấy được về vấn đề này, vấn đề tư bản. Mỗi người phải tự xác định cái góc của mình trước khi viết tác phẩm chủ yếu. Tôi có cái góc của tôi, dù tôi vẫn viết được về văn học phương Tây, không kém người ta lắm. Nhưng tôi chỉ là tôi khi tôi chọn viết Nho giáo, và khó ai hơn tôi được. Nhân đây tôi có nhận xét là cuốn Chân trời lạ của anh hay, Hoa đại thì phảng phất Nhặt cánh hoa tàn của Lỗ Tấn,… Nhưng cái góc của anh phải là Quỳnh Lưu, nơi thể hiện cái chất hùng, bi, hài và có cả chút cực đoan của cả một thời, của cả chế độ. Cả nước tập trung đầy đủ nhất ở đó. Anh viết đi, tôi sẽ đề tựa cho!
- Thưa bác, chị họ tôi - PGS, Nhà văn Đặng Thị Hạnh chuyên gia hàng đầu văn học Pháp cũng khuyên tôi như thế. Nhưng tôi đâu dám! Rất tiếc là anh Nguyễn Minh Châu chỉ mới chớm vào,… Bác có nói ông thân của bác (cụ Phó bảng Phan Võ) và ông nội tôi (cụ cử nhân Hồ Phi Huyền) là hai người giỏi chữ Nho hơn cả người Tàu?
- Đúng thế. Đã có lần tôi viết cha tôi rất trọng thị ông nội anh dám chống lại truyền thống khi thấy những điều không hợp. Ví dụ, việc phủ định thuyết ngũ hành trong y học: Y lý không dựa vào ngũ hành, các vị thuốc cũng vậy, dược tính là dược tính, y lý là y lý. Phải xét riêng từng trường hợp,…
Còn về tác phẩm Nhân đạo quyền hành của cụ viết trước Cách mạng Tháng Tám, thì đây là một khát vọng rất lớn, chưa nói nó đúng hay nó sai, khi muốn xây dựng một đạo đức học cho thời đại mình xuất phát ngay từ bản chất con người. Hơn nữa, đó là điều đạo đức học phương Tây xưa chưa làm được, trước sau họ đều xuất phát từ một ý niệm có sẵn chưa được kiểm chứng trong thực tế, giống như xuất phát từ một tiêu đề. Cho nên thiếu tính phổ quát cần thiết chung cho con người, với tính cách con người, được xem là lý do biện hộ cho nó… Tôi chỉ nói qua tác phẩm này về mặt phương pháp luận của cụ Hồ Phi Huyền - một nhà tư tưởng hiếm có trong tầng lớp Nho học xưa,…
Trong sự uyên thâm, phát sáng nghiên cứu văn hóa, đôi khi Phan Ngọc cũng có chút “nghênh ngang” như Nguyễn Tuân trong văn học, ở một tỷ lệ nào đó, ở một vài bóng dáng nào đó mang cốt cách phương Đông. Ông đã tiếp xúc và thuyết giảng nhiều lần ở các Đại học Mỹ, phương Tây, Trung Quốc, Đông Nam Á. Một lần, ở Hồng Kông, vị học giả trưởng lão Nhiêu Tông Di đáng kính của Đôn Hoàng học, vốn biết Phan Ngọc cao đạo dịch Đạo Đức Kinh (dễ hiểu) của Lão Tử, và là một người Việt Nam thuộc hơn 1.000 bài thơ Đường, điều mà không có một người Trung Quốc nào làm được như vậy - đã đích thân xuống núi đàm đạo tri kỷ,…
Trên mặt bằng chung, sự lo ngại “Những chân trời không có người bay” dường như được yên tâm hơn, khi có những đôi cánh nghiên cứu độc đáo với cách tiếp cận hiện đại như Phan Ngọc, là rất cần thiết, để góp phần xác lập tầm nhìn văn hóa Việt Nam - một tầm nhìn tự tin, có bệ phóng bản sắc dân tộc vững vàng, tung cánh vào bầu trời hội nhập.
ĐạiLải - Hè 2016
Nguồn: Hồ Phi Phục - VHNA
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.
ĐẶNG TIẾN (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.
ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.
TRẦN THUỲ MAI (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.