NGUYỄN KHẮC PHÊ
Thiên hạ đang náo nức đủ tin sốt nóng, sao lại đi nói chuyện mít? Cũng do trên trang mạng một tờ báo lớn mới đây có bài “Dân mạng thế giới xôn xao vì trái mít”; nguồn tin gốc lại là một trang mạng của Mỹ! Nhiều vùng quê Việt Nam mình đang vào mùa mít, nhà tôi lại sở hữu 2 cây mít năm nào cũng trĩu quả, cần chi tìm xem chuyện bên Mỹ?
Ảnh: internet
Hơn nữa, có sự tình cờ thú vị là trong lúc đọc giúp một bạn văn bản thảo cuốn tiểu thuyết lịch sử về đại tướng Võ Nguyên Giáp sắp in, tôi lật giở những tư liệu cũ bỗng gặp tờ “Tiền Phong” có những dòng sau đây:
“…Võ Nguyên Giáp cất tiếng khóc chào đời đúng mùa mưa lũ vào ngày 2 tháng 7 năm Tân Hợi, dương lịch là ngày 25/8/1911, trong một cái chòi cao cất tạm dưới gốc cây mít cổ thụ sau vườn nhà để tránh mưa to nước lớn…”.
Có phải vì thế mà vị đại tướng lo trăm việc lớn của đất nước, nhưng nếu tôi nhớ không lầm thì trong mấy lần về quê cũng như khi đi thăm một số địa phương khác, ông đã nhắc mọi người… đừng quên cây mít! Có điều nhiều trẻ em hiện nay - nhất là ở thành phố, chưa bao giờ được hưởng bóng mát bên gốc mít xanh tươi dưới nắng hè, chỉ quen ăn các thứ quả ngoại nhập trong siêu thị nên không biết múi mít thơm ngon như thế nào.
Vậy nên “tán chuyện” quanh cây mít lúc này cũng… vui, “điểm danh” các món ăn phong phú từ mít càng thú. Mà lên tiếng chuyện “ăn sạch” (thì mít trong nhà, bơm hóa chất vào làm chi!) lúc này là vui và chắc là nhiều người quan tâm hơn chuyện sách vở với văn chương! Mà đây là “Văn hóa ẩm thực” Việt “nguyên chất”, biết đâu khéo PR, sẽ có lúc xuất cảng được!
Trước khi nói cách ăn mít chín và mít non, cần phải phân biệt mít dai (mít ráo) hay mít bở (mít ướt) nữa. À, cũng nên biết hoa mít như thế nào. Hình như rất ít người nói đến “hoa mít”, nhất là trẻ nhỏ thành phố hôm nay, chỉ thạo bấm Iphone và Ipad. Cũng như nhiều loại cây trái, mít cũng có hoa đực và hoa cái. Khi chùm hoa trái mới nứt vỏ cây nhú ra, rất khó phân biệt; lớn lên lớp áo vàng bao kín hoa cái bung ra, để lộ ra lớp gai xanh xung quanh và cứ ngày một to dần lên thành quả mít; còn hoa đực thường chỉ xấp xỉ bằng ngón tay, xung quanh có lớp phấn vàng nhạt mịn màng, gọi là “dái mít” (Ngôn ngữ ta kể cũng tài thật!). Đêm vắng, đi gần chùm hoa trái mít “đang nở” thoảng mùi thơm khiêm tốn nên ít người để ý. Hồi nhỏ ở quê, tôi thường hái dái mít ăn… chống đói! Sau này, biết thêm, phụ nữ mang thai ăn dái mít để có thêm sữa. Không ai hái thì dái mít khô tóp dần rồi rụng xuống…
Quả mít lớn lên, muốn ăn mít non (nhớ là lúc vỏ hạt mít còn mềm, để nấu cách gì cũng ăn được tất cả) mới gọt vỏ xung quanh trước khi bổ đôi, rồi bổ tư... Mít non có nhiều cách nấu rất ngon, lại giảm lượng đường khi ăn, nhưng nhiều người ngại làm do “mân mó nhựa ra tay” (thơ Hồ Xuân Hương) khó rửa. Nhà tôi thì đã thạo “nghề”: Gọt vỏ quả mít dưới vòi nước (hay vừa gọt, vừa té nước) là nhựa trôi đi hết. Sau đó bổ đôi-tư-tám… rồi cắt bỏ cồi giữa quả. Có thể để từng miếng to đem luộc, khi ăn xắt từng lát, chấm với ruốc hay nước “chẻo” (xì dầu trộn với vừng rang xay nhỏ) kèm lá rau thơm “lộc quế” là tiện nhất; cũng có thể đem xào với dầu mỡ hay tôm, gia vị rau “lá lốt” thái nhỏ, càng ngon. Cách nấu khác: Lấy miếng mít sống thái mỏng rồi nấu canh với tôm (nhiều chợ có bán mít loại này) - tuy nhiên ở chợ có khi họ ngâm nước pha vôi để giữ lát mít màu trắng, không hẳn đã vô hại. Nhà tôi, mỗi khi làm quả mít non, được đem “phân phát” cho vài ba nhà xung quanh, lại là một thú vui nữa.
Hết non đến già - mít chín thơm lừng rồi! Với quả mít bở, chỉ việc bổ đôi, cồi ở giữa lấy ra rất dễ. Mít bở chín rất dễ tách hạt ra, có khi không cần nhai, nếu muốn vui, “tổ chức” ăn thi ai nhanh hơn rất chi là… xôm trò. (Tay - tất nhiên phải rửa sạch - bốc múi mít cho vào miệng, nhè hạt ra là lập tức đưa múi khác vô… Hồi còn sung sức, tôi đã có lần ăn thi 100 múi với “cô láng giềng” là phu nhân nhà thơ N.K.T rất là “kịch tính”…) Còn xơ mít cắt rời vỏ, trộn với ít muối trắng, nhồi cho nhuyễn rồi gói kín (trong mo cau chẳng hạn, hoặc cho vô bát đậy kín), vài ngày sau, cắt thành từng lát vàng như… thịt gà, vừa ngọt vừa chua, chấm nước kho cá hay thịt thì tuyệt ngon.
Nói chuyện ăn xơ mít, kể cũng nên nhắc câu ca xưa: “Mít ngon anh chén cả xơ/ Chị đẹp, em đẹp, anh rờ cả đôi!” Chuyện “anh rờ cả đôi”, thậm chí hai chị em lấy chung một chồng, ngày xưa không phải là hiếm. Nhân đây xin nhắc mấy câu thơ bà Cao Ngọc Anh (ái nữ của Đông Các Đại học sĩ Cao Xuân Dục) gửi cho anh rể là Hoàng Giáp Đặng Văn Thụy (từng làm Tế tửu Quốc Tử Giám Huế); do chồng bà qua đời lúc bà mới 30 tuổi, nhiều danh sĩ ngấp nghé, một hôm bà Hoàng nguýt ông và nói: Nếu ông bằng lòng, tôi sẽ nói với dì nó cho ông; ông Hoàng trả lời ỡm ờ: Cái đó thì tùy bà…; Nghe chuyện, bà Cao Ngọc Anh gửi cho anh rể bài thơ có mấy câu như sau: “Anh Tế nhà ta khéo ỡm ờ/ Phong tình quen thói lại lơ mơ/ Rượu ngọn uống hết không chừa cặn/ Mít ngon quen mùi đánh cả xơ…”
Loại chuyện “tình tang” này cũng vui, nên xin “kéo” thêm “hậu kỳ” với bài thơ cũng “dính” đến “múi và xơ” của ông anh tôi là Nguyễn Khắc Dương, nay đã 95 tuổi, thầy-tu-xuất này còn… trinh, nhưng rất nghịch. Do cụ Tế Đặng từng là thầy học chữ Hán của thân phụ ông Dương, nên ông viết bài “Ởm với ờ” họa bài thơ vừa dẫn ở trên, có ý “bênh” cụ Tế. Bài thơ như sau:
“Dì ởm thì tôi cũng cứ ờ/ Chính dì hay lắm chuyện lơ mơ
Em thì cũng rứa hơn chi ả/ Múi nỏ ra răng huống lọ xơ
Cửa Phật có khôn thì xuống tóc/ Đường trần chớ dại để vương tơ
Khả phong tiết hạnh lo mà giữ/ Còn ví von chi chuyện ghét ưa.
Thôi, trở lại chuyện mít. Theo đông y, mít bở “lành” hơn mít dai - mít dai ăn nhiều bị “nhiệt” (ngày còn nhỏ ở quê, mít đầy vườn, nhưng bố tôi chỉ cho tôi ăn mỗi lần vài múi!), nhưng nhiều người vẫn thích mít dai hơn vì được… nhai sướng miệng! Mít chín không ai gọt vỏ mà bổ đôi (bổ dọc hay ngang tùy quả mít to nhỏ), rồi xẻ tiếp thành 4 hay 8 miếng để cắt cồi giữa quả cho dễ. Có thể lấy từng múi hoặc cầm cả miếng, cắt bỏ vỏ; sau đó tách múi và xơ dễ hơn. Múi mít dai nếu nhiều, cho vào hộp kín để tủ lạnh, ăn dần trong vài ngày càng ngon. Xơ mít dai xào với mỡ, không cần mì chính đã ngọt; lại có thể muối chua rồi đem nấu canh cá. Rất dễ làm: Tước cụm xơ mít bỏ vào một cái bát, rắc ít muối trắng, đổ đầy nước lã, lấy đĩa đậy kín, 2 - 3 ngày sau có món nấu canh cá ngon hơn dưa chua mua ở chợ nhiều vì giàu vitamin, không phải thêm mì chính đã ngọt, lại sạch hơn.
Còn hạt mít, có thể luộc chín ăn ngay… chống đói rất tốt! Hồi còn ở quê, có khi mít chín nhiều, ăn không hết, chỉ lấy hạt phơi khô, đến mùa giáp hạt, nấu với khoai khô hay đỗ đen đều hợp. Tiếc là hình như chưa có nhà khoa học nào phân tích dinh dưỡng hạt mít và thử nghiệm các cách chế biến khác xem sao… Biết đâu lại cho ra đời loại thực phẩm có giá trị hàng hóa bổ và rẻ hơn hạt “mắc- ca”, hay hạt điều…? Còn vỏ mít dai hay bở, trâu bò hay hươu đều thích ăn. Đó là chưa nói đến cây mít tỏa bóng mát quanh năm, chứ không có kỳ rụng trụi lá như cây bàng, phượng, mãng cầu… Thân cây mít già thì nay đang được nhiều người săn lùng để làm bàn thờ hay tạc tượng…
Có lẽ do thấy mít hữu dụng như thế nên đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hơn một lần nói đến ích lợi việc trồng mít. Quả nhiên, vô “Google”, thấy báo “Thanh niên” đưa tin: Ngày đại tướng qua đời, trong một bài viết, GS.TS. Võ Tòng Xuân nhắc lại kỷ niệm: “…Đại tướng dặn tôi “Đừng quên cây mít nhé”.... Trước đó nhiều năm, có bài kể chuyện nhà doanh nghiệp Nguyễn Lâm Viên đã dồn công sức và trí tuệ để đưa cây mít lên tầm cao mới. Điều mà ông Viên làm được là đã tìm ra cách chế biến để mít thành một loại hàng hóa hấp dẫn. “Ông Viên chính là người đã thực hiện được ý nguyện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về cây mít…” - Ông Nguyễn Lân Hùng (đốc Trung tâm Sinh học thực nghiệm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) đã nói như thế. Và chiều 19/9/2007, ông Nguyễn Lâm Viên, giám đốc Công ty Vinamit đã đến báo cáo với Đại tướng Võ Nguyên Giáp thành tích phát triển vùng trồng mít, hỗ trợ cuộc sống người dân trồng mít, biến thứ trái cây dân dã Việt Nam thành sản phẩm xuất khẩu quốc tế mang về nhiều triệu đô-la mỗi năm… Tuy vậy, chẳng biết vì sao mà hình như cây mít không “cạnh tranh” được với các loại cây-quả khác, nên những năm qua ít người nhắc đến việc kinh doanh mít. Nhưng nói đến hồn quê đất Việt thì không thể quên hương mít thơm nồng.
Nhắc đến “hồn quê”, tôi bỗng nhớ mùa hè năm 1997, khi biết anh tôi là bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đang sống những ngày cuối đời, tôi hỏi anh có muốn ăn món gì không, một lúc, anh đáp rất nhỏ: “Giá như có một múi mít… và một cốc cà phê…”. Hẳn là anh nhớ những quán cà phê ở Paris, còn mít là hương vị quê nhà. Và vài năm trước, mỗi lần từ Sài Gòn trở ra Hà Nội sau kỳ tránh rét, anh thường ghé nhà tôi, có khi ở cả tháng, chiều chiều anh thích nằm võng mắc dưới cây mít đọc sách… Còn ở Hà Nội, biết tìm mít ở đâu? May sao, ra chợ Hôm, tìm mãi tôi thấy người bán mít, liền mua một lát cắt khoanh tròn vàng rộm như một đĩa trứng rán. Về nhà, chưa kịp mời, anh đã hỏi nhỏ: “Có mít thật à? Ung tìm mua ở mô đó?”… Từ ngày ấy, 22 năm đã qua. Nay anh ở “nơi xa” có thấy mít nhà thằng em ở Huế đang lúc “chín rộ” không?…
Chuyện vợ chồng già nhà tôi hái mít trên cao mà không cần trèo lên cây là cái “mẹo vặt” kể cho vui câu chuyện. Chồng đứng trên gác, ném dây qua cành mít, thòng dây xuống cho vợ cột vào một cái thùng; rồi kéo lên để thùng ôm trọn trái mít; sau đó chỉ việc dùng câu liêm cắt cồi, rồi lại cho thùng xuống; vợ chỉ việc ôm quả mít vô nhà - hàng chục quả mít chín thơm ngon của nhà tôi hái xuống đều giữ được nguyên lành như thế nhờ cái “mẹo” mà thằng con đặt tên là “Song tấu”… Chuyện này, tôi đã kể trong Tự truyện “Số phận không định trước”, in cuối năm 2016, kèm mấy cái ảnh màu. Nhưng Tự truyện của các “Sao”, chứ của ông già 80 này có lẽ chưa nhiều người đọc, nên nhân nói chuyện mít, “tái bản” một cách tóm tắt hầu bạn đọc quý báo, biết đâu lại được Công ty X, Y nào đó tặng giải “Sáng tạo kỹ thuật” cũng nên…
*
Tôi vừa định kết thúc bài tản mạn này thì mấy đứa cháu từ Hà Nội vào. Đúng lúc cây mít bên cổng có quả chín, liền mang ra đãi khách Thủ đô. Đây chính là “lớp người” chưa thấy cây mít và hưởng vị ngon đậm đà múi mít thơm nồng nàn. Cũng thật thú vị khi biết các cháu sẽ đi tàu hỏa ra Đồng Hới để đến thăm mộ Võ Đại tướng. Và tôi chợt nghĩ: không biết đã ai nghĩ đã việc trồng vài cây mít quanh khu mộ đại tướng chưa? Đang mùa mít chín, chọn quả thật ngon, lấy hạt “gieo” lúc này là vừa đẹp; xin nhắc nhớ gieo vào ống nứa để ngày Xuân tới sẽ có những mầm non nhú lên thẳng tắp…
N.K.P
(SHSDB34/09-2019)
BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.
PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.
XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.
NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.
TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.
NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!
Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.
NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com
VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.
TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.
TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.
TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…
MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.
NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.
HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.
NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.
LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...
PHAN VĂN LAITrong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Huế đã nổi lên là một chiến trường xuất sắc, được Đảng, Chính phủ tặng danh hiệu: “Tiến công nổi dậy, anh dũng kiên cường”, được Bác Hồ khen ngợi: “Bác rất vui mừng vừa qua Huế đã đánh giỏi, công tác giỏi, thu được nhiều thắng lợi to lớn” và được cả nước tự hào về Huế.