Tâm sự Nguyễn Du

09:24 23/11/2010
THÁI DOÃN HIỂUVì sao Nguyễn Du viết Truyện Kiều? Mục đích viết Kiều để làm gì?... là những câu hỏi bức bối trong suốt thời gian tôi còn làm ông giáo đứng trên bục giảng. Tôi đã viết một chuyên luận dài 200 trang để trả lời câu tự vấn trên. Dưới đây là bản tóm tắt ghi bằng thơ để bạn đọc dễ tiếp thu và ghi nhớ.

Ảnh: Internet

Nguyễn Du viết Truyện Kiều
Là để trút cả bầu tâm sự:
“Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ”(1)
(Ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai).
 
Thúy Kiều hai lần mặc áo xanh con ở
Hai lần làm kỹ nữ chốn yên hoa
Liệt nữ không thờ hai chồng
Bắt phong trần phải phong trần
Đoạn trường thế ấy còn vần chưa tha.
 
Cậu ấm Nguyễn sớm bị rứt ra khỏi màn loan trướng huệ
Ném vào cát bụi phong ba.
Tôi trung không thờ hai chúa
Vị cựu thần nhà Lê
Lại áo mão rềnh rang giữa vương triều Nguyễn
Tránh sao tiếng lao xao đàm tiếu của người đời?
 
Hai cảnh ngộ một tâm tình chìm nổi
Kiều là Nguyễn Du, Nguyễn cũng là Kiều
Mượn số kiếp nàng Kiều mà cảm thương thân thế
Nguyễn khóc Kiều là khóc chính cho ông
Nguyễn chiêu tuyết Kiều là chiêu tuyết cho ông.
 
Khoanh tay trông trời
Rũ áo nhìn đất
Nguyễn chỉ lặng im “Vâng! Dạ!”(2)
Nguyễn vật lộn gian nan cùng chữ “tiết”
Giữ vẹn tấm cô trung hay làm một kẻ sĩ thức thời!?

“Ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai”?
Tôi chợt hiểu ra mới ngoài ba mươi tuổi
Mái đầu Người đã trắng xóa như mơ!(3)
                                                                Tiên Điền, 8-10-1999
                                                Bên bờ sông Tiền Đường, 15-7-2005
                (Nguồn: Tuyển tập 700 năm thơ Huế, H. Thuận Hóa 2007)

-------------------
(1) Thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
(2) Có lần, Nguyễn Du bị vua Minh Mạng quở: “Nhà nước dùng người cốt chọn người tài giỏi. Ngươi cùng Ngô Vỵ đã được cân nhắc lên hàng á khanh, biết thì thưa thốt, sao lại khoanh tay chỉ biết dạ dạ vâng vâng”. Niềm u uất này kéo dài cho đến tận chết. Trước khi qua đời, vì bị nhiễm bệnh dịch tả từ Xiêm (Thái Lan) truyền sang, Nguyễn Du sai người nhà sờ lên người ông. Người nhà thưa: “Đã lạnh đến đầu gối”. Ông bảo “Được, được” rồi tắt thở, không trối lại điều gì. Ông chết trong cô đơn không ai vấn tang, đưa tang, lấy cớ sợ bệnh truyền nhiễm. Vua Minh Mệnh chỉ đưa đồ phúng, không viếng. Mạn tang, Nguyễn Ngữ - người con trai thứ 4 đưa hài cốt cha về táng dưới chân núi Hồng.
(3) Chi tiết này có chép trong
Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền.



LỜI BÌNH CHÚ CỦA TÁC GIẢ



Phần tư tưởng cốt tủy chi phối toàn bộ Truyện Kiều của Nguyễn Du là chữ “tiết” của Nho gia.

Tuy chỉ là một võ quan nhỏ tập ấm với người cha nuôi họ Hà biên trấn ở Thái Nguyên sau khi đỗ tú tài, Nguyễn Du vẫn nghiễm nhiên là cựu thần nhà Lê. Người đã từng trốn ra Bắc theo Lê Chiêu Thống sang Tàu phục quốc, nhưng không thành, bị quan quân nhà Tây Sơn tống ngục. May nhờ người anh trai đã cộng tác với chính quyền mới nên thoát nạn. Nguyễn mai danh ẩn tích dưới lốt “Hồng Sơn liệp hộ” (phường săn núi Hồng). Vì Nguyễn Du là chú ruột một bà phi(1) vua

Gia Long, vào hàng quốc trượng của nhà Nguyễn, nên khi Gia Long tuần thú ra Bắc, người buộc phải đón và theo phò giá Gia Long, được Gia Long bổ nhiệm đặc cách luôn làm tri huyện Phù Dung (Phù Cừ, Hưng Yên) (chức vụ này thường giao cho các cử nhân trong lúc Nguyễn Du chỉ mới đỗ tú tài); rồi người được đặc cách phong làm cai bạ Quảng Bình, vời về triều đặc cách làm đến tham tri bộ Lễ, được cử làm chánh sứ những hai lần. “Vị cựu thần nhà Lê - Lại áo mão rềnh rang giữa vương triều Nguyễn - Tránh sao tiếng lao xao đàm tiếu của người đời!?”. Đường hoạn lộ thẳng băng, nhưng Nguyễn đau lắm, đau nỗi đau của nhà nho thất tiết. Trong danh phận “hàng thần lơ láo”, bạn đồng liêu quay mặt bỉ báng, kẻ sĩ Bắc Hà khinh rẻ, Nguyễn sống trong cô độc buồn nản. Phải ngồi trên lưng cọp, tiến thoái lưỡng nan “Nguyễn vật lộn gian nan cùng chữ tiết - Giữ vững tấm cô trung hay làm một kẻ sĩ thức thời?” Kẻ sĩ thức thời như Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích trước đó thì điềm nhiên vận triều phục mới ung dung bước thẳng vào tân trào Tây Sơn cộng tác với một chính thể mới tiến bộ là một nhẽ. Đằng này, Nguyễn bị ràng buộc quá sâu sắc bởi chữ “tiết” nên từ bỏ nó đâu dễ một sớm một chiều. Thế là phải đánh vật với nỗi đau, u uất đến tận khi chết “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh - Giật mình mình lại thương mình xót xa” là nỗi đau máu thịt có thật của Kiều hay chính Nguyễn Du? Điều tâm sự này phổ vào tập Thanh Hiên thi tập Nam trung tạp ngâm khá đậm, nhất là bài “Long thành cầm giả ca” nuối tiếc ngậm ngùi cho triều Tây Sơn cũ trong vô vọng qua số phận tiều tụy của một ca nương.

“Ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai”, mà nói ra được cũng dễ gì có ai thèm nghe, ai thèm thông cảm cho. Tâm sự đắng chát đó liền bắt gặp tần số cộng hưởng với cuộc đời ba đào của nàng Kiều. “Hai cảnh ngộ một tâm tình chìm nổi - Kiều là Nguyễn Du, Nguyễn cũng là Kiều. Theo quan điểm Khổng Mạnh, vấn đề cốt tử, với người đàn bà là chữ “trinh”, với người đàn ông là chữ “tiết”. Thân thế thì khác nhau nhưng số phận thì giống nhau. Hai ta đều là điếm cả thôi mà, một bên là đĩ thể xác một bên là điếm linh hồn. Vâng, làm đĩ điếm bất đắc dĩ “Như nàng lấy hiếu làm trinh - Bụi nào cho đục được mình ấy vay”. Đĩ là đĩ thể xác, còn tinh thần thì lại rất trinh trắng. Tôi trung không thờ hai chúa, liệt nữ không thờ hai chồng. Thế là từ một chuyện lá cải Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã biến thành một kiệt tác qua bàn tay tái tạo của người thợ trời(2) với sứ mệnh giãi bày chữ tiết của mình cùng hậu thế, là cách tốt nhất để chiêu tuyết cho mình trước những sàm báng của thế nhân về thân phận bất đắc dĩ phải làm điếm chính trị của mình. Bi kịch của Nguyễn Du là bi kịch của một nho sĩ suốt đời không thể tìm ra được phương hướng. Chính nỗi đau phát phẫn trước thư trong khi viết tiểu sử cho chính mình, Nguyễn đã làm nên tập đại thành “kỳ tài diệu bút Thanh Hiên viễn quá Thanh Tâm” (Nhữ Bá Sĩ)(3). Truyện Kiềutự truyện tâm linh của Nguyễn Du bởi trữ tình chân chính bao giờ cũng mang tính chất tự truyện là vậy.

Năm 1999, từ Sài Gòn, tôi lại hành hương về Tiên Điền cố hương viếng ông Tổ của văn chương Việt. Cùng đi có bạn thơ Xuân Hoài, lúc đó là Giám đốc Sở Văn hoá Thông tin. Chúng tôi thắp hương trước mộ người. Tôi khấn “Thưa cụ, cụ viết Truyện Kiều cho ai?”. Trong trầm trầm hương khói, tôi nghe rõ âm thanh tuy rất nhỏ “Tôi viết cho tôi”. Trúng ý tôi rồi. Thế là từ mộ Nguyễn Du lên mộ Hải Thượng Lãn ông ở Hương Sơn, ngồi trên ô tô tôi lẩm nhẩm thành lời. Xuống xe, tôi chép lại với lời đề tặng bạn thơ Xuân Hoài. Xuân Hoài đem về đăng vào báo Hà Tĩnh cuối tuần. Mấy năm sau, tôi đưa cho Gia Dũng. Đọc xong, Gia Dũng lắc đầu. Bế Kiến Quốc đến chơi nhà, tôi đưa cho nhà thơ lúc ấy là tổ trưởng thơ báo Văn Nghệ. Bế Kiến Quốc tần ngần “quyết định đăng hay không lại ở người khác”. Hoàng Liên càm ràm “thôi dẹp đi ông, quan điểm tréo ngoeo cẳng ngỗng với tư tưởng chính thống ai người ta chấp nhận cho”. Tôi lén gửi báo nhà chùa Giác Ngộ. Mấy sư đăng ngay với tít mới “Nghĩ tưởng bên mồ Nguyễn Du” cùng bức ảnh chúng tôi đứng thắp hương trước mộ người. Rồi tờ web Khởi Nguồn ở Hoa Kỳ xin bài, tôi gửi họ, được đăng liền với bài trí rất trang trọng, được bạn đọc bốn phương ở hải ngoại đồng cảm đồng thuận suốt 5 năm qua. Và, khi Hội đồng biên tập làm cuốn 700 năm thơ Huế, cùng với bài Tạ lỗi cố nhân, bài Tâm sự Nguyễn Du được đưa vào tuyển tập sang trọng này.

Mùa hè năm 2005, tôi sang Trung Quốc, đến Vô Tích, Lâm Tri, Hàng Châu… “nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương” của đời Kiều luân lạc. Tôi đã tìm đến nghiêng mình bên bờ sông Tiền Đường “ầm ầm tiếng sóng” nơi Kiều trầm mình. Tôi bồi hồi lần theo dấu vết Nguyễn Du cách đó 175 năm (2005) đã từng đi sứ qua đây: Nguyễn thăm miếu thờ người anh hùng dân tộc Nhạc Phi, viếng Hàn San tự cổ kính với tiếng chuông nửa đêm nghìn năm còn vang vọng, người đề thơ bên tượng gian thần Tần Cối… Có điều khác nhau: Nguyễn là chánh sứ đi công du, Thái mỗ tôi là Phó Thường Dân Nam Bộ đi tư du. Nguyễn đi bộ, đi thuyền, đi ngựa mất 3 tháng rưỡi; Thái tôi cưỡi máy bay lướt gió mây mất chỉ có 4 tiếng từ Sài Gòn sang.

Những lúc trà dư tửu hậu, tôi thường đem chuyện Nguyễn Du viết Kiều ra nói, được khá nhiều bậc trí tán thưởng. Tôi nghĩ đã đến lúc, chúng ta nên có lòng tự trọng và thật sự cầu thị xét lại văn học cổ điển theo quan điểm mới, trả Céza về cho Céza chứ không nên ra rả trên bục giảng nhồi nhét vào óc con trẻ “Nguyễn Du đã đứng về phía quần chúng lao khổ bênh vực cho quyền sống, quyền làm người của họ”, “Nguyễn Du là người phát ngôn cho quyền lợi của nhân dân lao động” theo tinh thần văn học phục vụ chính trị. Đành rằng mang một trái tim lớn của nghệ sĩ lớn, Nguyễn Du đã đồng cảm trùm tình thương xuống cõi nhân gian khốn khổ này. Chính nhà phê bình Hoài Thanh giảng Kiều rất hay nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức “Quyền sống của con người trong Truyện Kiều”, mà không dấn lên thêm được bước nào khai sáng cho vấn đề vì sao Nguyễn Du viết truyện Kiều!? Trong văn học cổ điển thường thì tư tưởng tác phẩm lớn hơn tư tưởng tác giả. Nhưng dẫu sao thực sự đây lại là lời Nguyễn làm trạng sư tự bào chữa hùng hồn, kín đáo và nghiêm túc nhất trước cái bất nhẫn của cuộc đời đối với ông. Giảng Truyện Kiều và Nguyễn Du như xưa nay chỉ hớt ngọn thôi, không đi đến tận gốc của vấn đề. Đối với chuyện văn chương nghìn năm thiên cổ sự, việc sửa sai không bao giờ muộn cả. Đó là trách nhiệm của chúng ta với muôn đời hậu thế. Xin đừng làm Nguyễn Du buồn đau thêm nữa! Xin đừng tiếp tục ru ngủ con cháu chúng ta bằng cái sai lầm tai quái như thế nữa!

Là người nghiên cứu văn học, đã từ lâu tôi không quan tâm lắm đến câu cảm thán “Bất tri tam bách dư niên hậu - Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” như hầu hết mọi nhà nghiên cứu từng xuýt xoa mà chỉ chú ý đến câu thơ nhỏ nhoi định mệnh “Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ” lẩn quất trong thơ chữ Hán của người. Từ đó phăn nó ra…

Sydney, 29-7-2010
T.D.H
(260/10-10)



----------------
(1) Tức phi tần Nguyễn Thị Uyên, con gái Nguyễn Trừ (1760-1809) tri phủ Nam Sách - anh trai thứ 5 của Nguyễn Du. Nguyễn Trừ là con bà trắc thất thứ 5 Nguyễn Thị Xuân (quê Tiêu Sơn, Tương Giang, Bắc Ninh) của Tể tướng Nguyễn Nghiễm. Nguyễn Trừ ở lại quê ngoại không về Tiên Điền, lập ra một chi nhánh họ Nguyễn ở Bắc Ninh.

(2) Trong giao lưu văn hóa nhân loại, việc vay mượn đề tài, chủ đề, cốt truyện, điển cố, ngôn ngữ… là việc bình thường. Sếchxpia chẳng đã từng mượn đề tài từ Đan Mạch cổ xưa để viết Hămlét bất hủ, mượn truyện Ý để viết nên tình sử Rômêô và Juyliét sống mãi đó sao? Nguyễn Du mượn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân viết Truyện Kiều, cũng như kiến trúc sư Nguyễn An tù nhân quân Nguyên Mông đời Trần thiết kế ra quần thể Thiên An Môn hoành tráng; cũng như Mạc Đỉnh Chi đời Trần Anh Tông đi sứ Yên Kinh (Bắc Kinh) sang Bình Nhưỡng lấy cháu gái sứ thần Cao Ly đẻ ra một dòng ở bên ấy năm 1213 - vay cả dòng máu thì sao? (Xem thêm GIAI THOẠI KẺ SĨ VIỆT NAM của Thái Doãn Hiểu - Hoàng Liên, nxb Văn hóa - Dân tộc, Hà Nội 1997, trang 314).

(3) Trong việc viết Truyện Kiều, truyền thuyết kể rằng, mỗi lần quan Hầu Nguyễn Tiên Điền ra Thăng Long thường gối đầu lên đùi cô đào Xuyến nghe nàng “lẩy” từng câu Kiều và hai người chuốt lại từng chữ cho thật óng ả mới thôi. Cô đào Xuyến là người lịch lãm có trình độ thẩm văn cao. Tác giả Truyện Kiều nếu nói ra cho thật minh bạch thì phải đề là NGUYỄN DU - CÔ ĐÀO XUYẾN, (cũng như thuyết Tương đối một phát minh vĩ đại thế kỷ XX của Anhxtanh, cần phải công bằng ghi tên bà vợ ông là đồng tác giả). Lối “lẩy” Kiều là lối diễn ngâm độc đáo do cô đào Xuyến chế tác ra.



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.