Tấm gương Vĩnh Mai

09:07 28/10/2014

PHẠM XUÂN DŨNG

Trong số các nhà thơ, nhà văn quê hương Quảng Trị, Vĩnh Mai không phải là một tên tuổi lớn như Chế Lan Viên hoặc Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhưng ông vẫn là một tác giả đáng ghi nhận, một nhân cách đáng kính, một người trí thức đầy lòng tự trọng, một người yêu nước chân chính.

Nhà thơ Vĩnh Mai

Nhắc đến Vĩnh Mai, người đọc nhớ ngay đến bài thơ “Khóc Hoài” nổi tiếng. Nó hoàn toàn xứng đáng đủ tư cách đứng ngang hàng với bài thơ “Viếng bạn” của Hoàng Lộc và những thi phẩm khóc bạn, khóc người cùng chí hướng lưu danh trong lịch sử văn học Việt Nam. Bài thơ này đã làm nên danh xưng của Vĩnh Mai - “nhà thơ một bài” dù sự nghiệp sáng tác của ông không chỉ là ngần ấy. Nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường khi nói về “Khóc Hoài” đã nói rằng bài thơ gợi đến chất lấm láp, khỏe khoắn của hội vật làng Sình, cứ “mi mi tau tau” tỉnh bơ mà tình cảm như xoáy vào gan ruột. Cũng xin nói thêm rằng cho đến nay khi thời gian sáng tác bài thơ đã qua hơn nửa thế kỷ mà nhiều người cao tuổi ở khu vực Bình Trị Thiên vẫn nhớ đến tiếng thơ khóc bạn, có người còn đọc thuộc. Đó là hạnh phúc đích thực đối với một người cầm bút.

Tau với mi hẹn nhau từ khu bộ
Lúc trở về cố sáng tác văn chương
Đến tỉnh nhà lại mỗi đứa mỗi đường
Lo công việc không một ngày được nghỉ
Tau ao ước giữa văn nhân nghệ sĩ
Gặp lại mi để bàn chuyện lâu dài
Nhưng một hôm như sét đánh ngang tai
Tau sửng sốt nghe tin mi đã chết
Tau buột miệng kêu lên “thế là hết”
Tau mất thêm một thằng bạn văn chương...
...Mi lại chết! Trời ơi là uất ức
Mi táo bạo về ngay chi Phú Lộc
Để cho Tây phục kích bắn mi đi!
Tau biết rồi tính mi vốn khinh khi
Coi mạng sống như đồ chơi con trẻ


Bằng những nét tạo hình chắc khỏe, thô mộc, sần sùi đã khắc họa được chân dung một trí thức hiến trọn đời mình cho độc lập tự do và hy sinh lẫm liệt trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Một trí thức hòa mình vào cuộc chiến tranh nhân dân trường kỳ với dáng vẻ ngang tàng coi thường nguy hiểm. Đó là tượng đài hiếm hoi bằng thơ về người trí thức xả thân vì nghĩa lớn trong văn học Việt Nam hiện đại. Một điều không thể không nói thêm là cho đến nay giá trị của bài thơ này vẫn chưa được các nhà nghiên cứu phê bình nhìn nhận và đánh giá đúng mức.

Bạn đọc biết ít về Vĩnh Mai thường có cảm nhận rằng tác giả bài thơ “Khóc Hoài“ chắc hẳn là một nông dân thích sáng tác văn chương. Đó cũng là một thành công của bài thơ khi mang đầy hơi thở của kháng chiến và đời sống của những người áo vải. Nhưng nếu đọc tiểu sử của ông thì mới biết Vĩnh Mai là một tú tài Tây thứ thiệt, thi đỗ thứ nhì vào trường Quốc Học Huế lừng danh, một trí thức thực sự. Ông tên thật là Nguyễn Hoàng, người làng An Tiêm, Triệu Thành, Triệu Phong. Ông là một nhà hoạt động cách mạng, vào Đảng năm 1939, năm 1940 bị giặc bắt bỏ tù ở nhà đày Buôn Ma Thuột. Sau Cách mạng Tháng Tám ông đã giữ các chức vụ quan trọng như Bí thư Thành ủy Huế, Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị. Khi hòa bình lập lại, ông sống ở miền Bắc, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam với mong muốn hoạt động văn nghệ chuyên nghiệp. Cuộc đời ông gặp nhiều biến động, trắc trở, lao đao cho đến khi qua đời. Nhưng cho dù trong mọi tình huống, ông vẫn là người yêu nước chân chính luôn ưu dân ái quốc, là một trí thức ngay thẳng, chân tình, luôn suy nghĩ, chiêm nghiệm bằng bộ óc của mình, giữ trọn chính kiến và niềm tin cho đến phút cuối cùng. Dù cuộc đời gặp nhiều khó khăn, sóng gió nhưng Vĩnh Mai đúng là người mà uy vũ bất năng khuất, bần tiện bất năng di như người xưa đã nói. Huân chương Độc Lập cao quý truy tặng cho ông, dù muộn, cũng đã ghi nhận phần nào cuộc đời của một trí thức văn nghệ sĩ đích thực.

Bây giờ trong không khí cởi mở hơn nhiều, chúng ta hay nói đến phản biện. Nhưng trong không khí thời chiến căng thẳng của thời kỳ chống Pháp, Vĩnh Mai đã không rập khuôn mà có lối tư duy độc lập, luôn có đầu óc phản biện để làm sáng tỏ chân lý. Chẳng hạn như khi học chính trị về kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi, Vĩnh Mai đã thuyết phục cả hội trường bằng lý luận sắc sảo của mình rằng điều đó sẽ là hiện thực. Nhưng khi đổi bên để tranh luận, thì một mình Vĩnh Mai cũng đã lập luận rằng kháng chiến trường kỳ nhất định sẽ không thắng lợi và cả hội trường cũng đã chịu thua. Tất nhiên trước sau Vĩnh Mai vẫn là người cộng sản trung kiên, tin và chung thủy với điều mình đã chọn. Nhưng ví dụ trên là một minh chứng sinh động về một trí thức năng động trong tư duy và biện luận, luôn biết trăn trở tìm tòi để làm sáng tỏ chân lý, không thụ động nghe theo những tín điều đóng gói, dù nó được nhiều người coi là đúng đắn. Còn trong cải cách ruộng đất, nhà thơ Vĩnh Mai của chúng ta đã mạnh dạn bác bỏ việc quy định chỉ tiêu địa chủ cho từng làng, coi đó là biểu hiện chủ quan duy ý chí. Vì chuyện này ông bất đồng ý kiến nghiêm trọng với một phái viên cao cấp do Trung ương phái xuống khu Bốn chỉ đạo công tác cải cách ruộng đất. Thực tế sau này đã chứng minh chính kiến Vĩnh Mai cũng như nhiều người tỉnh táo khác là đúng đắn. Những sai lầm trầm trọng của cải cách ruộng đất đã được Hồ Chủ tịch và Đảng nhận khuyết điểm về sau cũng đã minh chứng điều này. Tuy nhiên vào một thời điểm sóng gió như trong thời kỳ cải cách ruộng đất mà bày tỏ công khai ý kiến của mình đối với cấp trên đầy quyền uy như vậy kể cũng có được mấy người. Hơn nữa những hệ lụy mà ông và gia đình gánh chịu vì những câu chuyện tương tự như trên thật quá nặng nề. Cũng như trong sinh hoạt, có người phê bình ông là thích uống cà phê Tây, thích nhiều thứ tiện nghi của văn minh châu Âu, theo đuôi tư sản! Vĩnh Mai, bằng cuộc đời và nhân cách của mình đã chứng thực ông là người chống thực dân, đế quốc đến cùng, một lòng vì dân vì nước. Còn chuyện sinh hoạt đời thường khẩu vị thích gì nói nấy, chứ đừng giả bộ nói không thích ăn ngon mặc đẹp để tỏ vẻ ta đây giữ vững lập trường! Lý tưởng mà người cộng sản đưa ra chẳng phải là đánh đuổi xâm lược, đem lại cuộc sống độc lập tự do và sung sướng cho con người hay sao? Một trí thức tự trọng, có tư duy độc lập như Vĩnh Mai khó chấp nhận lối mòn rập khuôn máy móc, giáo điều, không thực tế trong suy nghĩ, lý luận cũng như những biểu hiện cụ thể trong cuộc sống hàng ngày, hay tệ hại hơn là những lời dối trá, đạo đức giả!

Cũng chính ngày nay, chúng ta nói nhiều đến cải cách hành chính, giảm bớt những cuộc họp không cần thiết, điều mà nhà thơ Xô Viết thiên tài Maiacôpxki đã từng kêu lên trong bài thơ “Những người loạn họp” thì nhà thơ Vĩnh Mai cách đây hơn nửa thế kỷ đã than phiền bằng thơ trào phúng, một mảng sáng tác khác của ông chưa được nhiều người biết đến:

Ngang lưng thì thắt phương châm
Đầu đội chính sách, tay cầm chủ trương
Đôi chân đứng vững lập trường
Hữu thân hữu họp không đường mà ra?


Một tính cách ngay thẳng, cứng cỏi như Vĩnh Mai dĩ nhiên là coi thường, khinh ghét những kẻ cơ hội, xu nịnh, giả dối, bất tài mà luồn lọt, hại người. Vì vậy ông đã có bài thơ châm “Có một chàng”:

Trời đất sinh ra có một chàng
Chỉ tài nịnh hót với huênh hoang
Gặp trên khúm núm lưng tôm bạc
Thấy gái nho nhoe đít cá vàng
Viết chẳng ra văn nhưng lách giỏi
Làm không được việc lại chơi sang
Suốt đời chỉ một anh dang dở
Chính trị nửa mùa văn nghệ lang!


Cũng với cá tính như thế nên Vĩnh Mai hay bị góp ý phê bình, thậm chí nhiều lúc phải ngồi viết kiểm điểm. Một hôm như vậy, ông bèn ngồi viết bài thơ tự trào có tên là “Cái lưng”:

Cái lưng anh giống cây chò
Đứng giữa mưa dầm, giữa gió to
Không biết nghiêng qua không biết uốn
Chả hay còng lại chả hay bò
Lắm khi thiên hạ leo lên cưỡi
Nhiều lúc người đời xúm đánh cho
Mới biết ngay lưng là khổ thế
Đêm đông cũng không được nằm... co!


Trí thức chân chính là người hay nghĩ, trước hết là nghĩ về vận mệnh đất nước, số phận nhân dân. Ngay khi miền Bắc trở lại hòa bình sau cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà thơ đã nhìn thấy những căn bệnh của hòa bình, những nguy cơ phải được nhìn thấy và giải quyết. Trong nhật ký của mình (đã được trích trong hồi ký văn học “Sống với nhà thơ Vĩnh Mai”, của phu nhân nhà thơ là Phương Chi, Nhà xuất bản Thuận Hóa năm 2003), đã kể lại chuyện nhà thơ trăn trở viết:

“Sao ngày nay về đến nông thôn, ngoảnh mặt vào đâu cũng có thể thấy tự tư tự lợi, cá nhân ích kỷ, hep hòi, cằn cọc. Cùng đảng viên với nhau trong một tổ, cùng ăn sương nằm đất với nhau trong hồi kháng chiến, cùng xã viên trong một hợp tác xã với nhau, cùng bà con thôn xóm với nhau, sao họ nỡ vì một giòng rau muống, vì một cụm lúa, nỡ đánh chết của nhau con gà, con vịt? Vì sao chỉ vì ít nước, đường cày, bờ ruộng mà họ nỡ chửi bới nhau suốt mấy ngày...”.

Cũng trong cuốn hồi ký này, nhìn thấy nguy cơ của căn bệnh khao khát làm quan, tham danh, hám lợi, nhà thơ của chúng ta đã thốt lên: “Thuốc nào chữa được bệnh khanh tướng?”

Năm 2001 nhà thơ Vĩnh Mai được Chủ tịch nước truy tặng huân chương Độc lập hạng Nhì, một sự vinh danh tưởng thưởng được xem là cao quý dù như đã nói cũng có phần muộn màng. Nhưng cuộc đời và nhân cách của ông từ lâu đã được nhiều đồng nghiệp, bằng hữu và hậu thế ngưỡng vọng. Nên nhiều người vẫn ao ước rằng: Giá như đời này có được nhiều hơn một Vĩnh Mai!

P.X.D
(SDB14/09-14)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH

  • Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.

  • Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.

  • Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.

  • (Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:            “Những lo toan năm tháng đời thường            Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

  • Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.

  • (Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như  “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.

  • Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.