PHẠM XUÂN DŨNG
Trong số các nhà thơ, nhà văn quê hương Quảng Trị, Vĩnh Mai không phải là một tên tuổi lớn như Chế Lan Viên hoặc Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhưng ông vẫn là một tác giả đáng ghi nhận, một nhân cách đáng kính, một người trí thức đầy lòng tự trọng, một người yêu nước chân chính.
Nhà thơ Vĩnh Mai
Nhắc đến Vĩnh Mai, người đọc nhớ ngay đến bài thơ “Khóc Hoài” nổi tiếng. Nó hoàn toàn xứng đáng đủ tư cách đứng ngang hàng với bài thơ “Viếng bạn” của Hoàng Lộc và những thi phẩm khóc bạn, khóc người cùng chí hướng lưu danh trong lịch sử văn học Việt Nam. Bài thơ này đã làm nên danh xưng của Vĩnh Mai - “nhà thơ một bài” dù sự nghiệp sáng tác của ông không chỉ là ngần ấy. Nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường khi nói về “Khóc Hoài” đã nói rằng bài thơ gợi đến chất lấm láp, khỏe khoắn của hội vật làng Sình, cứ “mi mi tau tau” tỉnh bơ mà tình cảm như xoáy vào gan ruột. Cũng xin nói thêm rằng cho đến nay khi thời gian sáng tác bài thơ đã qua hơn nửa thế kỷ mà nhiều người cao tuổi ở khu vực Bình Trị Thiên vẫn nhớ đến tiếng thơ khóc bạn, có người còn đọc thuộc. Đó là hạnh phúc đích thực đối với một người cầm bút.
Tau với mi hẹn nhau từ khu bộ
Lúc trở về cố sáng tác văn chương
Đến tỉnh nhà lại mỗi đứa mỗi đường
Lo công việc không một ngày được nghỉ
Tau ao ước giữa văn nhân nghệ sĩ
Gặp lại mi để bàn chuyện lâu dài
Nhưng một hôm như sét đánh ngang tai
Tau sửng sốt nghe tin mi đã chết
Tau buột miệng kêu lên “thế là hết”
Tau mất thêm một thằng bạn văn chương...
...Mi lại chết! Trời ơi là uất ức
Mi táo bạo về ngay chi Phú Lộc
Để cho Tây phục kích bắn mi đi!
Tau biết rồi tính mi vốn khinh khi
Coi mạng sống như đồ chơi con trẻ
Bằng những nét tạo hình chắc khỏe, thô mộc, sần sùi đã khắc họa được chân dung một trí thức hiến trọn đời mình cho độc lập tự do và hy sinh lẫm liệt trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Một trí thức hòa mình vào cuộc chiến tranh nhân dân trường kỳ với dáng vẻ ngang tàng coi thường nguy hiểm. Đó là tượng đài hiếm hoi bằng thơ về người trí thức xả thân vì nghĩa lớn trong văn học Việt Nam hiện đại. Một điều không thể không nói thêm là cho đến nay giá trị của bài thơ này vẫn chưa được các nhà nghiên cứu phê bình nhìn nhận và đánh giá đúng mức.
Bạn đọc biết ít về Vĩnh Mai thường có cảm nhận rằng tác giả bài thơ “Khóc Hoài“ chắc hẳn là một nông dân thích sáng tác văn chương. Đó cũng là một thành công của bài thơ khi mang đầy hơi thở của kháng chiến và đời sống của những người áo vải. Nhưng nếu đọc tiểu sử của ông thì mới biết Vĩnh Mai là một tú tài Tây thứ thiệt, thi đỗ thứ nhì vào trường Quốc Học Huế lừng danh, một trí thức thực sự. Ông tên thật là Nguyễn Hoàng, người làng An Tiêm, Triệu Thành, Triệu Phong. Ông là một nhà hoạt động cách mạng, vào Đảng năm 1939, năm 1940 bị giặc bắt bỏ tù ở nhà đày Buôn Ma Thuột. Sau Cách mạng Tháng Tám ông đã giữ các chức vụ quan trọng như Bí thư Thành ủy Huế, Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị. Khi hòa bình lập lại, ông sống ở miền Bắc, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam với mong muốn hoạt động văn nghệ chuyên nghiệp. Cuộc đời ông gặp nhiều biến động, trắc trở, lao đao cho đến khi qua đời. Nhưng cho dù trong mọi tình huống, ông vẫn là người yêu nước chân chính luôn ưu dân ái quốc, là một trí thức ngay thẳng, chân tình, luôn suy nghĩ, chiêm nghiệm bằng bộ óc của mình, giữ trọn chính kiến và niềm tin cho đến phút cuối cùng. Dù cuộc đời gặp nhiều khó khăn, sóng gió nhưng Vĩnh Mai đúng là người mà uy vũ bất năng khuất, bần tiện bất năng di như người xưa đã nói. Huân chương Độc Lập cao quý truy tặng cho ông, dù muộn, cũng đã ghi nhận phần nào cuộc đời của một trí thức văn nghệ sĩ đích thực.
Bây giờ trong không khí cởi mở hơn nhiều, chúng ta hay nói đến phản biện. Nhưng trong không khí thời chiến căng thẳng của thời kỳ chống Pháp, Vĩnh Mai đã không rập khuôn mà có lối tư duy độc lập, luôn có đầu óc phản biện để làm sáng tỏ chân lý. Chẳng hạn như khi học chính trị về kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi, Vĩnh Mai đã thuyết phục cả hội trường bằng lý luận sắc sảo của mình rằng điều đó sẽ là hiện thực. Nhưng khi đổi bên để tranh luận, thì một mình Vĩnh Mai cũng đã lập luận rằng kháng chiến trường kỳ nhất định sẽ không thắng lợi và cả hội trường cũng đã chịu thua. Tất nhiên trước sau Vĩnh Mai vẫn là người cộng sản trung kiên, tin và chung thủy với điều mình đã chọn. Nhưng ví dụ trên là một minh chứng sinh động về một trí thức năng động trong tư duy và biện luận, luôn biết trăn trở tìm tòi để làm sáng tỏ chân lý, không thụ động nghe theo những tín điều đóng gói, dù nó được nhiều người coi là đúng đắn. Còn trong cải cách ruộng đất, nhà thơ Vĩnh Mai của chúng ta đã mạnh dạn bác bỏ việc quy định chỉ tiêu địa chủ cho từng làng, coi đó là biểu hiện chủ quan duy ý chí. Vì chuyện này ông bất đồng ý kiến nghiêm trọng với một phái viên cao cấp do Trung ương phái xuống khu Bốn chỉ đạo công tác cải cách ruộng đất. Thực tế sau này đã chứng minh chính kiến Vĩnh Mai cũng như nhiều người tỉnh táo khác là đúng đắn. Những sai lầm trầm trọng của cải cách ruộng đất đã được Hồ Chủ tịch và Đảng nhận khuyết điểm về sau cũng đã minh chứng điều này. Tuy nhiên vào một thời điểm sóng gió như trong thời kỳ cải cách ruộng đất mà bày tỏ công khai ý kiến của mình đối với cấp trên đầy quyền uy như vậy kể cũng có được mấy người. Hơn nữa những hệ lụy mà ông và gia đình gánh chịu vì những câu chuyện tương tự như trên thật quá nặng nề. Cũng như trong sinh hoạt, có người phê bình ông là thích uống cà phê Tây, thích nhiều thứ tiện nghi của văn minh châu Âu, theo đuôi tư sản! Vĩnh Mai, bằng cuộc đời và nhân cách của mình đã chứng thực ông là người chống thực dân, đế quốc đến cùng, một lòng vì dân vì nước. Còn chuyện sinh hoạt đời thường khẩu vị thích gì nói nấy, chứ đừng giả bộ nói không thích ăn ngon mặc đẹp để tỏ vẻ ta đây giữ vững lập trường! Lý tưởng mà người cộng sản đưa ra chẳng phải là đánh đuổi xâm lược, đem lại cuộc sống độc lập tự do và sung sướng cho con người hay sao? Một trí thức tự trọng, có tư duy độc lập như Vĩnh Mai khó chấp nhận lối mòn rập khuôn máy móc, giáo điều, không thực tế trong suy nghĩ, lý luận cũng như những biểu hiện cụ thể trong cuộc sống hàng ngày, hay tệ hại hơn là những lời dối trá, đạo đức giả!
Cũng chính ngày nay, chúng ta nói nhiều đến cải cách hành chính, giảm bớt những cuộc họp không cần thiết, điều mà nhà thơ Xô Viết thiên tài Maiacôpxki đã từng kêu lên trong bài thơ “Những người loạn họp” thì nhà thơ Vĩnh Mai cách đây hơn nửa thế kỷ đã than phiền bằng thơ trào phúng, một mảng sáng tác khác của ông chưa được nhiều người biết đến:
Ngang lưng thì thắt phương châm
Đầu đội chính sách, tay cầm chủ trương
Đôi chân đứng vững lập trường
Hữu thân hữu họp không đường mà ra?
Một tính cách ngay thẳng, cứng cỏi như Vĩnh Mai dĩ nhiên là coi thường, khinh ghét những kẻ cơ hội, xu nịnh, giả dối, bất tài mà luồn lọt, hại người. Vì vậy ông đã có bài thơ châm “Có một chàng”:
Trời đất sinh ra có một chàng
Chỉ tài nịnh hót với huênh hoang
Gặp trên khúm núm lưng tôm bạc
Thấy gái nho nhoe đít cá vàng
Viết chẳng ra văn nhưng lách giỏi
Làm không được việc lại chơi sang
Suốt đời chỉ một anh dang dở
Chính trị nửa mùa văn nghệ lang!
Cũng với cá tính như thế nên Vĩnh Mai hay bị góp ý phê bình, thậm chí nhiều lúc phải ngồi viết kiểm điểm. Một hôm như vậy, ông bèn ngồi viết bài thơ tự trào có tên là “Cái lưng”:
Cái lưng anh giống cây chò
Đứng giữa mưa dầm, giữa gió to
Không biết nghiêng qua không biết uốn
Chả hay còng lại chả hay bò
Lắm khi thiên hạ leo lên cưỡi
Nhiều lúc người đời xúm đánh cho
Mới biết ngay lưng là khổ thế
Đêm đông cũng không được nằm... co!
Trí thức chân chính là người hay nghĩ, trước hết là nghĩ về vận mệnh đất nước, số phận nhân dân. Ngay khi miền Bắc trở lại hòa bình sau cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà thơ đã nhìn thấy những căn bệnh của hòa bình, những nguy cơ phải được nhìn thấy và giải quyết. Trong nhật ký của mình (đã được trích trong hồi ký văn học “Sống với nhà thơ Vĩnh Mai”, của phu nhân nhà thơ là Phương Chi, Nhà xuất bản Thuận Hóa năm 2003), đã kể lại chuyện nhà thơ trăn trở viết:
“Sao ngày nay về đến nông thôn, ngoảnh mặt vào đâu cũng có thể thấy tự tư tự lợi, cá nhân ích kỷ, hep hòi, cằn cọc. Cùng đảng viên với nhau trong một tổ, cùng ăn sương nằm đất với nhau trong hồi kháng chiến, cùng xã viên trong một hợp tác xã với nhau, cùng bà con thôn xóm với nhau, sao họ nỡ vì một giòng rau muống, vì một cụm lúa, nỡ đánh chết của nhau con gà, con vịt? Vì sao chỉ vì ít nước, đường cày, bờ ruộng mà họ nỡ chửi bới nhau suốt mấy ngày...”.
Cũng trong cuốn hồi ký này, nhìn thấy nguy cơ của căn bệnh khao khát làm quan, tham danh, hám lợi, nhà thơ của chúng ta đã thốt lên: “Thuốc nào chữa được bệnh khanh tướng?”
Năm 2001 nhà thơ Vĩnh Mai được Chủ tịch nước truy tặng huân chương Độc lập hạng Nhì, một sự vinh danh tưởng thưởng được xem là cao quý dù như đã nói cũng có phần muộn màng. Nhưng cuộc đời và nhân cách của ông từ lâu đã được nhiều đồng nghiệp, bằng hữu và hậu thế ngưỡng vọng. Nên nhiều người vẫn ao ước rằng: Giá như đời này có được nhiều hơn một Vĩnh Mai!
P.X.D
(SDB14/09-14)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.
PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)
HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.
NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.