Tác động của văn hóa đến hoạt động truyền thông đối với đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao tỉnh Thừa Thiên Huế trong bối cảnh hiện nay

16:02 18/10/2019

NGUYỄN CHÍ QUANG

Ảnh: internet

Trong giai đoạn hiện nay, các dân tộc đều chịu tác động lớn của tiến bộ khoa học kỹ thuật; sự phát triển đa dạng của các phương tiện nghe, nhìn và du nhập của các nền văn hóa thế giới, tạo nên những “va đập”, giao thoa và sự tác động đến văn hóa truyền thống. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của xã hội, văn hóa lại có tác động ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng hơn đến hoạt động truyền thông ở những khu vực đặc thù này. Thực tế đó, đòi hỏi cần có sự nhìn nhận lại, đánh giá ngày càng nghiêm túc, cẩn trọng vấn đề tác động của văn hóa đến hoạt động truyền thông cho các đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao trên địa bàn tỉnh nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động này trong thời gian đến.

Ở vùng cao tỉnh Thừa Thiên Huế, ngoài 5 dân tộc chính, gồm: Pa Kô, Tà Ôi, Cơ Tu, Pa Hy và Kinh, còn có nhiều dân tộc khác cùng đoàn kết sinh sống. Phần lớn các cộng đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh cư trú phân tán, xen kẽ tại vùng núi huyện Nam Đông và A Lưới với địa hình chia cắt phức tạp, nhiều địa bàn là nơi có vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh; đời sống người dân đa phần còn khó khăn, trình độ phát triển không đồng đều, trình độ học vấn chưa cao, song đồng bào sở hữu văn hóa, tri thức bản địa phong phú, đa dạng. Đặc biệt, tính gắn kết cộng đồng cao, sự hiếu khách, yêu văn nghệ là đặc tính nổi trội, phổ biến ở nhiều cộng đồng thiểu số tại các địa phương vùng cao này; cùng với đó là vai trò dẫn dắt, then chốt của những người tiên phong, người có uy tín như Già làng, Trưởng bản…

Tác động của văn hóa đối với hoạt động truyền thông ở vùng dân tộc thiểu số nước ta nói chung và địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng đã được khẳng định và thể hiện không chỉ trong quá khứ, mà còn ở hiện tại cũng như sẽ còn tiếp tục trong tương lai. Từ thực tiễn đó, mà trong thời gian qua thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành của tỉnh luôn dành các điều kiện ưu đãi nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các cộng đồng dân tộc thiểu số, ban hành nhiều chính sách về phát triển thông tin, truyền thông ở vùng dân tộc thiểu số. Song đến nay, sự hưởng thụ thông tin văn hóa giữa miền xuôi và miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao vẫn còn không ít khoảng cách bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do chưa thực sự coi trọng văn hóa, hoặc thiếu hiểu biết về văn hóa dẫn đến truyền thông chưa đạt hiệu quả tương xứng.

Mặc dù, hoạt động truyền thông ở vùng cao trên địa bàn tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống hiện nay không chỉ chịu tác động từ văn hóa, mà còn từ chính trị, kinh tế, xã hội… Tuy nhiên, cần quan tâm đúng mức ảnh hưởng của văn hóa tác động đến việc thực hiện các chiến lược, sách lược truyền thông cũng như các hoạt động truyền thông cụ thể. Với đồng bào vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh có trình độ nhận thức còn hạn chế, khó có thể truyền tải thông điệp mang nặng tính lý luận hay quá cách điệu hóa, trừu tượng hóa; hoặc với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số chỉ biết nói tiếng của dân tộc mình mà tiến hành truyền thông bằng tiếng Kinh, hoặc cử cán bộ giỏi tiếng nước ngoài mà không biết tiếng dân tộc thì đồng bào sẽ không hiểu, hiệu quả truyền thông khó được đảm bảo.

Nhìn nhận từ đặc thù công tác truyền thông đối với đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế là việc hiểu và nắm bắt được văn hóa của cộng đồng với đặc trưng là tính gắn kết cộng đồng cao để sử dụng “mạng lưới” sẵn có hoặc tạo nên một mạng lưới truyền thông được coi là một trong những biện pháp quan trọng tác động đến chất lượng công tác truyền thông. Từ đó, làm thành dòng chảy truyền thông giữa người truyền thông - thông điệp - đối tượng tác động, giúp chia sẻ những bài học kinh nghiệm, hình thành ý tưởng cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả truyền thông hiện tại hoặc cho hoạt động truyền thông kế tiếp. Song, đặc điểm tâm lý, văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số có những yếu tố đặc biệt. Vì lý do đó nên ngày nay, càng có nhiều cơ quan, tổ chức… truyền thông lựa chọn hình thức, thông điệp truyền thông hay người làm truyền thông đến nhóm đối tượng này theo tiêu chí phải có hiểu biết nhất định về văn hóa địa phương, văn hóa của nhóm đối tượng để bảo đảm sự bình đẳng văn hóa; đồng thời, có khả năng thúc đẩy sự lan tỏa các thực hành mới trong cộng đồng dân tộc thiểu số bởi đây là quá trình mang tính lựa chọn, cần một khoảng thời gian nhất định.

Do vậy, trong công tác truyền thông đối với đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao cần nghiên cứu kỹ văn hóa bản địa để lựa chọn người truyền thông, chọn thông điệp, hành động truyền thông mang tính gần gũi, phù hợp với tâm thức văn hóa địa phương. Thực tế đã chứng minh, thông điệp truyền thông nếu thể hiện dấu ấn hoặc sự liên kết, tôn trọng văn hóa bản địa sẽ dễ dàng đi vào lòng người, dễ được tiếp nhận và tạo hiệu quả tích cực trong việc thúc đẩy nhận thức, hành động đúng đắn của người dân. Nếu ngược lại, dễ gây sự xa lạ, xa cách, thậm chí khó hiểu, từ đó khó tiếp nhận thông điệp truyền thông. Đặc biệt, hoạt động truyền thông sẽ đạt hiệu quả cao nếu có sự chuẩn bị, tìm hiểu kỹ càng đặc điểm tâm lý dân tộc của đồng bào dân tộc thiểu số.

Văn hóa tác động một cách toàn diện đến các công cụ, phương tiện truyền thông ở vùng dân tộc thiểu số sinh sống, bởi các công cụ, phương tiện truyền thông như tranh cổ động, tờ rơi, biểu ngữ, báo, đài phát thanh, đài truyền hình, điện thoại, fax, internet, mạng xã hội… đều là sản phẩm của văn hóa do con người sáng tạo ra. Thiếu các công cụ, phương tiện này, hoạt động truyền thông có thể bị mất đi tính đa dạng, hấp dẫn, sức thuyết phục và khả năng tạo ra hiệu ứng, hiệu quả truyền thông rộng rãi. Điển hình, với tranh cổ động, tờ rơi, việc trình bày đẹp, ấn tượng và làm nổi bật những từ quan trọng, hình minh họa dựa trên những nét văn hóa gần gũi trong cuộc sống hàng ngày của đồng bào dân tộc giúp đồng bào hứng thú và dễ tiếp thu hơn. Với phương tiện phát thanh, truyền hình, thường có sự ngắn gọn, rõ ràng, truyền cảm, cùng với âm nhạc, hình ảnh dân tộc và ưu tiên dùng tiếng dân tộc thiểu số, giúp đồng bào nhớ nhanh hơn, hứng thú hơn do được tác động đến nhiều giác quan cùng một lúc. Việc tận dụng truyện, thơ ca, trò chơi dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số để có cách thức thể hiện phù hợp cũng tạo hiệu quả truyền thông rõ rệt do gần gũi với tâm thức văn hóa và tâm lý tiếp nhận của họ.

Đặc biệt, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay, có thể thấy rõ tác động ngày càng đa dạng, sâu sắc của văn hóa đến sự phát triển và sử dụng các công cụ, phương tiện truyền thông, với sự xuất hiện và biến đổi như vũ bão của các công cụ, phương tiện này, kéo theo đó là sự biến đổi số lượng đối tượng tiếp nhận, tâm lý, thói quen tiếp nhận và chịu ảnh hưởng bởi truyền thông của ngày càng nhiều của đồng bào tại vùng cao. Tác động của văn hóa đến hoạt động truyền thông không chỉ dừng lại ở văn hóa nội bộ quốc gia hay văn hóa của các cộng đồng dân tộc thiểu số trong nước với nhau mà còn đến từ văn hóa của các dân tộc, đất nước khác trong khu vực biên giới và ngay cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới do ảnh hưởng mạnh mẽ của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa.

Hiện nay, văn hóa của các cộng đồng, dân tộc, quốc gia trên thế giới đang dần tác động ngày càng nhanh, mạnh và len lỏi vào mọi ngóc ngách của hoạt động truyền thông nói chung, truyền thông ở đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao ở Thừa Thiên Huế nói riêng với nhiều hình thức biểu hiện và phạm vi tác động mới. Cụ thể, càng ngày người ta càng nói nhiều đến “văn hóa truyền thông số” với sự trợ giúp của điện thoại, điện thoại thông minh (smart phone), máy tính bảng, máy vi tính, mạng internet cùng các phương tiện khoa học - kỹ thuật hiện đại khác khiến hình thành văn hóa truyền thông kiểu mới, khác với kiểu truyền thống (chủ yếu qua truyền thông trực tiếp và gián tiếp với sự trợ giúp của các phương tiện truyền thông thô sơ, lạc hậu). Phạm vi tác động trong xu thế mới, không chỉ trong đời sống thực mà còn trong đời sống “ảo” (trên mạng internet, qua các trang mạng xã hội, kênh chia sẻ thông tin…) của người dân ở vùng dân tộc thiểu số; tác động không chỉ trong lúc thực hiện hoạt động truyền thông mà cả sau khi hoạt động truyền thông đã được thực hiện hoặc đã hoàn thành bởi người dân và người thực hiện hoạt động truyền thông, cũng như bất kỳ người nào trên thế giới có thể giao tiếp, tương tác, phản hồi với nhau qua điện thoại, hoặc mạng internet, đặc biệt qua Facebook, Twitter, Youtube, Zalo...

Tất cả các vấn đề trên tạo thành tổng thể tác động của văn hóa đến hoạt động truyền thông đối với đồng bào dân tộc thiểu số cùng cao trên địa bàn tỉnh, có sự đan xen, tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau, đòi hỏi hoạt động truyền thông cần chú trọng đến tổng thể các vấn đề tác động, không nên quá coi trọng hay thiên lệch khía cạnh tác động nào bởi sẽ dễ dẫn đến những bất bình đẳng, mâu thuẫn, xung đột…, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động truyền thông cả trước mắt lẫn lâu dài. Với sự đa dạng và khác biệt về văn hóa của các cộng đồng dân tộc tại vùng cao tỉnh Thừa Thiên Huế, đòi hỏi hoạt động truyền thông tại những địa bàn này, cần có sự chọn lựa, chọn lọc các giá trị văn hóa để vừa đảm bảo bình đẳng, đa dạng văn hóa, tránh sa vào định kiến, vị chủng, không đi ngược lại các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm các nhu cầu, lợi ích chính đáng của người dân và hướng đến các giá trị văn hóa phổ quát của nhân loại: chân - thiện - mỹ. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động truyền thông, tăng cường nhận thức, hướng đến những hành động tích cực của đồng bào dân tộc thiểu số nhằm mục tiêu phát triển toàn diện, bền vững các cộng đồng dân tộc, góp phần thúc đẩy sự phát triển vững bền, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.

N.C.Q
(TCSH367/09-2019)


Tài liệu tham khảo

1. Trương Văn Quân (2008), Các ấn phẩm báo chí của Thông tấn xã Việt Nam phục vụ đồng bào dân tộc miền núi, Luận văn cao học, Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội.
2. Vũ Quang Hào (2012), Ngôn ngữ báo chí, Nxb. Thông tấn, Hà Nội.
3. Trần Ngọc Thêm (2012), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. PGS,TS. Đặng Thị Thu Hương (2015), Văn hóa truyền thông đại chúng - sức mạnh mềm trong kỷ nguyên kỹ thuật số, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông.
5. TS. Bùi Thị Như Ngọc (2019), Tác động của văn hóa đến hoạt động truyền thông ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay, Tạp chí Cộng sản.
6. PGS,TS. Đinh Thị Thúy Hằng (2019), Phương thức truyền thông cho cộng đồng thiểu số, Tạp chí Người Làm Báo.
 



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ MINH PHONGDọc theo đôi bờ Sông Hương, nơi có những công viên quyến rũ là điểm trưng bày của một số công trình nghệ thuật.

  • NHỤY NGUYÊN(Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương)

  • LÊ PHÙNGSau nhiều ngày cùng nhau trăn trở - nghĩ suy - hiệp lực - hiệp tâm của những anh, chị em nhạc sĩ ở Huế, Nhạc Quán đã chính thức trình làng với công chúng yêu thích âm nhạc tại Huế vào lúc 20h, ngày chủ nhật (02/01/2011) là ngày Đinh Tỵ (nguyệt đức hợp, tế tự, đính hôn) trong tiết trời vào xuân của Huế, có sáng nắng chiều mưa, có gió về đêm, có lòng người ấm áp, có không gian lãng mạn, trữ tình.

  • HỒ VĨNHMới đây trong quá trình sưu tầm tư liệu Hán Nôm tại Cố đô Huế, chúng tôi tìm thấy được một văn bản có liên quan đến Phường Đúc Huế.

  • TƯỜNG THITôi trở lại Hương Trà bằng ký ức của hơn 20 năm trước, trên con đường đất băng qua những vườn thanh trà trĩu quả ven con sông Bồ thơ mộng để đến làng Lại Bằng, xã Hương Vân. Một xã tiếp giáp núi và đồng bằng, nơi đã ghi lại dấu ấn lịch chống giặc ngoại xâm của Thừa Thiên Huế - địa đạo Khe Trái.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTrong những năm gần đây, Huế đã được các nhà đông phương học và khách du lịch trong nước và ngoài nước lưu ý.

  • MAI KHẮC ỨNGLăng Minh Mạng nằm dưới chân núi Cẩm Kê thuộc thôn La Khê làng An Bằng huyện Hương Trà cũ, nay là thôn Liên Bằng, xã Hương Thọ, thành phố Huế. Địa thế dải đất này rất đẹp. Hiện thời cây cối ở chung quanh đã lùi xa để lại những khoảng trống nối dài trên các triền đồi thoai thoải, khu lăng trở nên lẻ loi hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂMCó lẽ một trong những loài động vật gần gũi, gắn bó với người dân xứ Huế trong mọi thời cuộc là loài hến. Cho dù trải qua bao thăng trầm, bao biến cố trên mảnh đất nhỏ bé này, mọi thứ có thể thịnh suy nhưng hến vẫn trường tồn. Trường tồn như một nét văn hóa thầm lặng, khiêm tốn, không khua trương, ồn ào,… mà âm thầm tỏa ngát hương.

  • PHAN HỨA THỤYChùa Thiên Mụ là một công trình kiến trúc có qui mô lớn và xuất hiện khá sớm trong quá trình hình thành phát triển của văn hoá Phú Xuân. Cũng như phần lớn các công trình kiến trúc cổ khác, chùa Thiên Mụ từ khi mới được xây cất trở về sau lần lượt đã được dựng nhiều tấm bia, hoặc để ghi lại công việc tu tạo, hoặc đề thơ vịnh cảnh, hoặc ghi cảm tưởng trong những lần vãn cảnh chùa của một số vua chúa nhà Nguyễn.

  • NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(Tiếp theo SH số 5 – tháng 2 - 1984)

  • NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(B.A.V.H. 1992, trang 189-203)HỒ TỊNH TÂM - Từ thời Gia Long, khi xây kinh thành Huế, một nhánh sông đã được ngăn chặn lại ở trên làng Kim Long hiện nay và dòng sông đó bị lấp đi ở một vài nơi, một số nơi khác thì được mở rộng và uốn nắn lại cho đều đặn. Chính một phần của nhánh sông ngày xưa ấy đã tạo ra Hồ Tịnh Tâm, nay ở tại bên trái đường Lục bộ, gần với Cầu kho, hay vùng nhượng địa (cho Pháp ở Mang Cá lớn).

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó lẽ thiên nhiên đã giữ một vai trò nào đó, thực quan trọng, trong sự tổng hợp nên cái mà người ta có thể gọi là “bản sắc Huế”. Bởi vì thiên nhiên bao giờ cũng biểu hiện một cách nhất quán giữa cái hằng cửu và cái biến dịch, giữa cái biến động và cái tĩnh tại.

  • MAI KHẮC ỨNGBất chợt. Tưởng như có con lợn chạy giữa sân điện Cần Chánh tại Hoàng thành Huế. Định thần lại tôi đã nhìn thấy chúng trong mấy ô trang trí bên thân hai chiếc vạc đồng đúc thuở Kim Long còn là phủ chúa dưới thời Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) mà lạc khoản lại ghi Thịnh Đức thứ 8 và Thịnh Đức thứ 10. Bản chú thích bên hai vạc này ghi là đúc năm 1660 và 1662.

  • L.N.D: Vào năm 1822, dưới triều Minh Mạng, một người Anh là John Crawfurd có dịp đến Huế và được hai người Pháp lúc bấy giờ đang làm quan ở đây là Chaigneau và Vannier hướng dẫn đi thăm Kinh Thành. Dưới đây là những gì mà Crawfurd đã viết về Huế trong ngày viếng thăm ấy: 29-9-1822. Chúng tôi dịch từ bản Pháp ngữ của H.Cossarat trong B.A.V.H. 1933, No1-2, tr.5-10.

  • PHẠM ĐĂNG TRÍThuở ấy, có nhiều người từ những miền đất màu mỡ nhưng vẫn dời nhà đến ở trên một vùng gò đồi đầy sỏi đá. Nguyên nhân lôi cuốn họ tới đây là do màu sắc thiên nhiên ở chốn này thật là thanh tú, đa dạng và không ngừng thay đổi.

  • LÊ VĂN HẢOTháng 12 năm 1979 tại thành phố Pitxanulôcơ (Pitsanulok) Thái Lan, ông Tổng Giám đốc Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc (gọi tắt là UNESCO) đã triệu tập một cuộc họp của những chuyên gia nhằm chuẩn bị cho một Chương trình nghiên cứu các đô thành lịch sử ở châu Á. Chương trình này sẽ nhằm vào một số đô thành cổ kính đã từng đóng những vai trò có ý nghĩa trong sự phát triển và giao lưu của các nền văn hoá ở châu Á.

  • Chiều 8.6, tại Nam Châu Hội Quán trên vùng cỏ cây Kim Long xứ Huế, GALA TINH HOA SÔNG HƯƠNG đã được tổ chức nhằm tôn vinh Nhà xuất bản Tinh Hoa - Huế.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNỞ mục “Phương vị quê hương” này, tạp chí sẽ lần lượt đăng các bài tìm hiểu văn hoá ngắn gọn nhưng có… duyên văn chương. Chúng tôi vui mừng được sự hưởng ứng của các nhà nghiên cứu lão thành am hiểu Huế - Bình Trị Thiên như các cụ Bửu Kế, Phan Văn Dật, Nguyễn Hữu Đính, Phạm Đăng Trí… cùng các anh Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Thuận An… Chúng tôi cũng mong nhận được bài của các bạn ở các tỉnh miền Trung nói về phong vị quê hương mình để tạo được giao lưu văn hoá trên giải đất gắn bó lâu đời này.

  • MẶC KHÁCHHuế nguyên là đất đế đô, nơi sinh trưởng của vua chúa, chốn triều đình quan lại, đa số tao nhân mặc khách đều tụ họp về đây. Do đó mà tiếng nói của xứ Huế, trang nhã thanh tao, có khi lại nặng mùi “bề trên” hoặc kiểu cách đến buồn cười.

  • NGUYỄN HỮU ĐÍNHMột nhà văn tên tuổi địa phương - địa phương nhưng kiêm cả Trung ương - đã say sưa mô tả con sông Hương, với một đầu đề trớ trêu và duyên dáng: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Trớ trêu và duyên dáng hơn nữa là nêu lên câu hỏi mà không chịu trả lời.