Sự ra đời của đế chế Nguyễn (*)

08:54 06/06/2017

Sách chuyên khảo “Sự ra đời của đế chế Nguyễn” của A.Riabinin tiến sĩ sử học Xô Viết nghiên cứu lịch sử xã hội - chính trị của Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX.

Riabinin lúc đến nghiên cứu tại Huế (1984) (từ trái sang phải: cố họa sĩ Bửu Chỉ, cố nhà thơ Phan Văn Dật, Riabinin và nhà văn Nguyễn Đắc Xuân)

Chương mở đầu phân tích những cuộc đấu tranh của phong kiến ở Nam bộ (Gia Định) chống lại nhà nước Tây Sơn, một Nhà nước hình thành nhờ tư tưởng phong kiến hóa từ một nhóm người lãnh đạo phong trào nông dân. Giai đoạn cuối cùng, khi những căn cứ khởi nghĩa ở phủ Quy Nhơn tách biệt với chính quyền thối nát ở Huế và trở thành trung tâm kháng chiến chống lại bọn hào phú ở Gia Định, khi từ phong trào xuất hiện những thủ lĩnh đầy tài năng đứng đầu quần chúng có vũ trang, lúc này người ta thấy sự hồi sinh những tính cách nông dân trong phong trào cùng những đối đầu giữa các phe phái đạt được một phương hướng giai cấp rõ nét.

Cần hiểu ràng những người Tây Sơn không phải thất bại xét về mặt quân sự, một khi đứng trước những đội quân của hào phú (thực sự Tây Sơn ít giành được thắng lợi về mặt này) họ đã thất bại trước một mẫu hình kinh tế tiến bộ hơn, trên cơ sở này tồn tại một nền kinh tế phong kiến và tư nhân mang nặng tính thương mại trên những hình thức của một nền sản xuất nông nghiệp.

Trong quá trình chống lại lực lượng Tây Sơn đã thành hình hai lực lượng kìm chống nhau. Những người ý thức được những nhu cầu của những tầng lớp xã hội tiên phong được gọi, theo qui ước, những người theo pháihiện thực”, những đại diện cho xu hướng quay lại những khuôn mẫu truyền thống xưa cũ về cấu trúc xã hội kinh tế, được gọi những người theo phái “truyền thống". Tranh chấp giữa hai phe phái này trước vấn đề ai sẽ ảnh hưởng đến nền chính trị trong nước đã là biểu hiện cho sự đối nghịch giữa hai bộ phận trong giai cấp phong kiến: hào phú và viên chức phong kiến.

Lực lượng có vũ trang của hào phú ở Nam bộ được nhiều cư dân thành thị, chủ yếu là tư thương, giúp đỡ, giành được chính quyền năm 1802. Họ đã xây dựng một chính quyền mới trên những nguyên tắc thực hiện một chính sách về xã hội đặc thù cho từng thành phần trong đế chế, cùng việc thống nhất vào thời kỳ sau những khuôn mẫu phát triển ở Nam bộ - Đàng Trong trong thế kỷ XVIII.

Bốn chương tiếp phân tích theo từng chương sự phát triển của xã hội, kinh tế và nghiên cứu chi tiết sự phát triển xã hội - chính trị của xã hội Việt Nam theo từng vùng trong cả nước Bắc Bộ - Nghệ An - Thanh Hóa, những tỉnh cũ của xứ Đàng Trong, Nam Bộ - (Gia Định) theo từng giai đoạn chuyển tiếp: 1802 - 1806, 1806 - 1812, 1812 -1817, 1817-1819.

Chương 2 nghiên cứu lịch sử chính trị xã hội Việt Nam giai đoạn 1802 – 1806. Thời kỳ này, phái “truyền thống” đang nắm chính quyền ở Bắc Bộ cố gắng xây dựng một chính sách bảo thủ gồm những nét chủ yếu: tái lập sở hữu tập thể về đất đai - cơ sở kinh tế của viên chức phong kiến, hạn chế những định vị xã hội - chính trị với hào phú, giảm bớt vai trò chức năng của họ trong việc tham gia quyền bính. Do thực hiện nhất quán chính sách này, tranh chấp trong xã hội trở nên trầm trọng thêm và xuất hiện những vụ nổi loạn có vũ trang chống lại Nhà nước “truyền thống”, Ở Nam Bộ thuộc chính quyền “hiện thực”, tầng lớp địa chủ được phát huy tích cực vai trò của mình, đồng thời với tư thương, thợ thủ công, chủ hãng, những người này được chính quyền miễn thuế từng phần hay toàn trong nhiều năm. Việc khuyến khích buôn bán gạo đã biến tỉnh Gia Định thành một vựa lúa của cả nước và tạo điều kiện cho nhiều công trình xây dựng lớn ở Kinh đô, điều này gắn chặt với việc củng cố những cơ sở doanh nghiệp của Nhà nước phong kiến ở những tỉnh thuộc Đàng Trong, một phần ở Nghệ An Thanh Hóa đang thuộc chính quyền ở Phú Xuân. Nét đặc biệt cũng trong thời kỳ này và mang tính ngoại lệ là chính quyền trung ương thừa nhận vai trò của tư nhân đã được chính thức hóa, được bầu bán và công nhận trong địa hành chính, cùng với những “thư ký” làm những công việc hành chính, bằng cách này tránh được tuyển chọn người theo thi cử và hình thành một tầng lớp người “phân tán”.

Chương 3 nghiên cứu sự phát triển xã hội và chính trị của Việt Nam thời kỳ 1806-1812. Chính quyền “truyền thống” gây nên những vụ nổi loạn của quần chúng đứng đầu là những đại diện “quý tộc”, Triều Nguyễn bị đe dọa ở Bắc thành. Khủng hoảng quân sự đi liền với khủng hoảng chính trị. Chỉ nhờ những lực lượng quân sự quá khích mà chính quyền “truyền thống” ngăn cản một trong những dòng họ xưa cũ nhất tham gia quyền bính. Thất bại tất yếu của những người bảo thủ buộc phải tước bỏ quyền lực của những người “truyền thống” và chỉ định những người “hiện thực” vào những chức vụ hành chính cấp cao, họ - phái “hiện thực” - đã hạn chế dần hoạt động những cơ sở doanh nghiệp Nhà nước phong kiến và nhờ vậy tình hình được ổn định dần ở Bắc Bộ. Ở Gia Định, sau khi sưu thuế được lập lại, việc đánh thuế vào đất tư chủ yếu thuộc về địa chủ trở nên dễ dàng hơn, 10 lần thấp hơn mức đánh trung bình của đế chế. Tư thương được quyền thoát khỏi sự kiểm soát của Nhà nước. Những đặc quyền cũng được dành cho những người cùng chiến đấu với quan Nhiếp chính thành Gia Định (trong thời kỳ chống quân Tây Sơn những năm 80 của thế kỷ XVIII), và được gọi là người của Băng Kốc (tức những người cùng đi với quan Nhiếp chính đến Băng Kốc). Cũng cần ghi nhận rằng những người dân Gia Định “từ chối” những chức vụ trong bộ khung chính quyền ở Nam bộ, những vị trí hành chính cao, đặc biệt ở Kinh thành, điều này chứng tỏ họ quan tâm hơn đến công việc buôn bán thương mãi và không chuẩn bị gì cho những kỳ thi tuyển. Do những tranh chấp ở Campuchia, các cơ sở doanh nghiệp của Nhà nước phong kiến có phát triển đôi chút. Tại những tỉnh cũ ở xứ Đàng Trong, hình thức này vốn có từ trước bị hạn chế, nhưng hình thức lao dịch theo định kỳ của nhiều tầng lớp trong xã hội vẫn còn. Binh lính bị sung vào việc xây dựng ở Kinh thành. Nhiều vụ nổi dậy nổ ra ở Nghệ An, Thanh Hóa ở những tỉnh tiếp giáp với Bắc thành, nhưng tất cả đều bị dập tắt.

Chương 4 phân tích lịch sử xã hội chính trị thời kỳ 1812-1817. Ở Bắc bộ, phái “hiện thực” sau khi thay đổi những chính sách có từ thời chính quyền trước, và du nhập một chính sách kinh tế bằng biện pháp quân sự, đã thành công trong việc trấn áp những vụ nổi loạn và hạn chế ảnh hưởng chống chính quyền, làm ổn định tình hình. Cùng thời gian này tình trạng bất ổn bắt đầu xuất hiện ở Nghệ An, Thanh Hóa. Ở Gia Định, do tranh chấp vẫn tiếp diễn ở Campuchia, chính quyền gia tăng mức thuế và lao dịch bằng những biện pháp quân sự, điều này thực hiện được nhờ vào số lượng đông đảo những người chịu sưu thuế và lao động cho Nhà nước. Ở những tỉnh cũ xứ Đàng Trong, mức độ khai thác doanh nghiệp của Nhà nước không cao. Tranh chấp giữa hai phái “hiện thực” và “truyền thống” kết thúc, những thủ lĩnh của “truyền thống” bị tiêu diệt. Thắng lợi của những người “hiện thực” trên bình diện cả nước khả dĩ cho phép thực hiện một chính sách xã hội cân bằng dựa trên những chuẩn mực của sự phát triển từ “phương nam”, cùng lúc này, kỳ thi tuyển liên Việt đã chứng tỏ vai trò lãnh đạo của người miền Bắc trong phạm vi đào tạo cán bộ quản lý. Một thành viên của lực lượng bảo thủ cùng lúc được quyền kế vị hoàng đế. Từ đó bắt đầu hình thành một lớp người thừa kế “những người của Băng Kốc” mà đa số là con cháu những hào phú ở Gia Định. Những người này không dự các kỳ thi, mà tham gia vào cơ cấu hành chính nhằm mục đích làm suy yếu vai trò phái “truyền thống” và củng cố phương hướng cho phái “hiện thực” trong tương lai.

Chương 5 phân tích lịch sử xã hội chính trị Việt Nam giai đoạn 1817-1819. Thời gian này đường lối chính trị xã hội vốn đã cân bằng được trong toàn đế chế, một đường lối “thân Nam" bước đầu được áp dụng trong phạm vi rộng. Ở Bắc thành, chính sách này đã ổn định được tình hình và chấm dứt các vụ nổi loạn. Vùng Nghệ An, Thanh Hóa, chính sách phát triển cơ sở doanh nghiệp của Nhà nước phong kiến được chính quyền địa phương áp dụng gây nên những vụ nổi loạn có vũ trang, nhưng một trong những người “hiện thực” nhanh chóng dập tắt. Một loạt những biện pháp kinh tế và xã hội hữu hiệu tiếp theo sau những sự kiện này đã góp phần bình thường hóa tình hình. Ở Gia Định, việc tuyên truyền những sách lược của đế chế ở Nam bộ đã phát triển tốt đẹp những cơ sở doanh nghiệp của Nhà nước phong kiến, nhờ vào chính sách tăng số lượng người chịu sưu thuế, phần lớn những người di dân từ miền Bắc vào. Dù vậy địa chủ vẫn thừa hưởng những nguồn lợi từ thuế khóa mà mãi đến năm 1836 hình thức này mới bị bỏ. Lớp “người của Băng Kốc” đã trở thành một lực lượng chính trị thực sự, ảnh hưởng đến việc hình thành và vận dụng chính sách trong nước, họ đã lớn mạnh đáng kể. Ở những tỉnh cũ của Đàng Trong, đường lối chính trị xã hội của Nhà nước không mang lại những thay đổi lớn vì chúng chỉ là những chuẩn mực thực hiện máy móc, được sử dụng như một khuôn mẫu của đế chế được áp dụng trong cả nước. Dù vậy, thắng lợi của phái “hiện thực” vẫn không đầy đủ và vững chắc. Kỳ thi tuyển năm 1819 chứng tỏ vai trò lãnh đạo của những người Bắc trên lĩnh vực đào tạo cơ cấu viên chức. Ở miền Bắc, cơ sở xã hội - kinh tế của “chủ nghĩa truyền thống” tức sở hữu tập thể đất đai vẫn tồn tại. Ở Kinh đô, quanh nhà vua vẫn còn đội ngũ “truyền thống” với đường lối ôn hòa và thụ động và không dám xung đột với chính quyền “hiện thực”, họ chỉ đợi quyền lực sẽ được chuyển qua người bảo hộ của họ, từ đó thực hiện những chính sách của họ. Thay đổi những nhà quân chủ đã bổ sung cho đường lối lãnh đạo phát xuất từ Phú Xuân (Huế). Để tuyên truyền cho đường lối này trên phạm vi cả nước, những người “truyền thống” phải liên tục đấu tranh ở Bắc bộ, nhất là ở Nam bộ. Ngay đến những năm 30, những người “hiện thực” vẫn chưa bị tiêu diệt toàn bộ. Những khủng hoảng xã hội và kinh tế, con đẻ của bộ máy hành chính “truyền thống” trong những năm 20-30 đã phần nào làm tái sinh “chủ nghĩa hiện thực” vào cuối những năm 40 và đầu những năm 50 của thế kỷ XIX, nhưng vẫn không được phát triển do cuộc xâm lăng của người Pháp. Hoạt động từ trước của những người “truyền thống” đã làm suy yếu nhiều cuộc kháng chiến chống người Pháp.

ANH TÚ
(dịch từ bản tóm tắt tiếng Pháp)

(TCSH42/04&05-1990)


-----------------
(*) Sách của A. L. Riabinin, Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô, Mạc Tư Khoa 1988.






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).