Sự gắn bó giữa đời văn và tác phẩm

08:59 07/07/2014

BÍCH THU
(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)

Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm được hình thành trên mối cơ duyên văn học giữa đôi bạn vong niên Tô Hoài và Hà Minh Đức. Một bên là nhà văn, một bên là nhà nghiên cứu. Hai ông quen nhau từ năm 1957, và gần nửa thế kỷ trải qua những bước thăng trầm của cuộc đời cũng như của đời sống văn học, nhà văn Tô Hoài đã trở thành bậc trưởng lão của làng văn và giáo sư Hà Minh Đức cũng đã trở thành một trong những tên tuổi tiêu biểu của giới lý luận phê bình. Trong suốt chặng đường dài của thế kỷ XX cho đến nay, mối quan hệ giữa hai ông cũng là của hai giới sáng tác và phê bình vẫn chân tình, đằm thắm và bền chặt. Ở hai ông, không còn là chuyện của hai nhân vật thuộc lĩnh vực phê bình hay sáng tác mà giản dị chỉ là chuyện của hai người bạn...

Hà Minh Đức bắt đầu ghi chép về nhà văn Tô Hoài từ năm 1965 đến nay. Qua những cuộc trò chuyện với Tô Hoài, Hà Minh Đức đã lắng nghe và nhận ra những câu nói hay, những câu chuyện thú vị về cuộc đời và những kinh nghiệm nghệ thuật của cây bút sớm thành danh này rất bổ ích đối với ông, nếu không ghi lại sẽ bị lãng quên. Từ sau những lần gặp gỡ, Hà Minh Đức bắt đầu có ý thức ghi chép về Tô Hoài và đã khơi gợi ở nhà văn những vấn đề mà ông quan tâm tìm hiểu. Thời gian trôi đi, những câu chuyện của Tô Hoài như ngày nào vẫn luôn hấp dẫn Hà Minh Đức. Các trang ghi chép của ông ngày càng dày thêm với nhiều thông tin, tư liệu phong phú. Câu chuyện của Tô Hoài cũng là câu chuyện về văn học Việt hiện đại với những vận động và đổi thay theo tiến trình văn học dân tộc giúp người nghiên cứu bước vào thế giới nghệ thuật độc đáo của nhà văn.

Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm gồm ba phần. Phần I: Trò chuyện và ghi chép. Phần II: Nghiên cứu về tác phẩm của Tô Hoài. Phần III: Phụ lục. Ở phần Trò chuyện và ghi chép (18 bài), có thể “chấm công” cho cả người kể chuyện lẫn người ghi chép. Nói như Hà Minh Đức, một nửa cuốn sách là của nhà văn Tô Hoài. Sau khi ghi lại một cách trung thành, đầy đủ lời kể của Tô Hoài, Hà Minh Đức đã chỉnh trang, hệ thống theo vấn đề, thành một tập bản thảo, đã được nhà văn Tô Hoài đọc và góp ý. Nhưng khi cầm cuốn sách mới in trên tay, nhà văn cao niên này vẫn không khỏi bùi ngùi xúc động... Những trang Trò chuyện và ghi chép thật sự gây ấn tượng và lôi cuốn với người đọc. Nổi bật ở đây là những câu chuyên chân thực, giàu tri thức và vốn sống của Tô Hoài được ghi chép chính xác và cụ thể, phù hợp với chất giọng, với cách nói rủ rỉ mà thâm trầm, dí dỏm của nhà văn. Phần Trò chuyện và ghi chép đã cung cấp cho độc giả những thông tin bổ ích, lý thú và mới mẻ về Tô Hoài và đồng nghiệp của ông trên những nẻo đường văn nghiệp đầy gian nan và thử thách. Trong câu chuyện của mình, Tô Hoài không ngần ngại hé lộ tuy bị một nhà phê bình cùng thế hệ gọi là “thằng ngoại ô láu cá” nhưng nhà văn vẫn kiên trì theo đuổi đề tài lâu dài của mình là khu vực ngoại thành - vùng quê Hà Nội thân yêu của ông từ loạt truyện viết cho người lớn: Quê người (1942), Mười năm (1958), Quê nhà (1980)... đến loạt truyện viết cho thiếu nhi: Đảo hoang, Chuyện nỏ thần, Nhà Chử...

Những cuộc trò chuyện giữa Tô Hoài và Hà Minh Đức đã bộc lộ cái duyên riêng, cái âm trầm nốt lặng của những người từng trải chuyện đời và chuyện nghề. Cả nhà văn và nhà nghiên cứu đều biết chia sẻ và đồng cảm với lĩnh vực của mỗi người, và đều hướng đến cái đích chung là văn học. Văn học của ngày qua và của hôm nay, vừa chồng chất kỷ niệm vừa rất thời sự cập nhật. Từ những suy nghĩ về văn chương Tự lực văn đoàn, văn chương kháng chiến đến văn chương thời kỳ đổi mới. Từ những sáng tác của chính mình về đề tài Hà Nội, miền núi, thiếu nhi đến những sáng tác của các bạn văn cùng thời. Từ những quan niệm về thể loại, về nghiên cứu phê bình, về văn học và báo chí đến những dự định sáng tác... Tất cả đều hiện ra hết sức chân thật, hấp dẫn và có sức hút với người đọc.

Trên những trang ghi chép về Tô Hoài, dễ nhận thấy Hà Minh Đức không chỉ gợi chuyện mà còn đối thoại với những nhấn nhá, luyến láy khiến câu chuyện vừa tự nhiên, chân tình, vừa đậm đà ý vị. Có lúc Hà Minh Đức như người trong cuộc, có lúc lại như người quan sát; “Anh (Tô Hoài - BT) đi giữa dòng đời, nhập cuộc mà như người đi bên cạnh, bên trên để thấy cho hết cái khách quan của sự sống”.
Sang đến phần II: Nghiên cứu về tác phẩm văn học của Tô Hoài, người đọc gặp lại một cây bút nghiên cứu phê bình quen thuộc. Những cuộc gặp gỡ và ghi chép về Tô Hoài thực sự có ý nghĩa với phần nghiên cứu của Hà Minh Đức. Nó là một yếu tố làm tăng thêm độ tin cậy và phong phú trong các bài viết của ông về nhà văn. Bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và sự hiểu biết kỹ lưỡng đời văn và tác phẩm Tô Hoài, các bài viết của Hà Minh Đức có hàm lượng khoa học cao đã phát hiện và khẳng định những đóng góp của văn xuôi Tô Hoài với lịch sử văn học dân tộc trong tiểu luận: Tô Hoài. Hà Minh Đức cũng đã ghi nhận một cách thuyết phục tài năng của ngòi bút nhà văn qua Truyện về các loài vật của Tô Hoài.

Là một trong số những nhà nghiên cứu quan tâm đến sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, Hà Minh Đức đã dõi theo khá đều đặn những tác phẩm có tiếng vang của nhà văn: Vợ chồng A Phủ, Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ... Ngay từ sau thời kỳ đổi mới, trong không khí cởi mở, dân chủ của đời sống văn học, Hà Minh Đức đã góp tiếng nói khách quan, công bằng đánh giá lại tiểu thuyết Mười năm, xác định đúng vị trí của nó trong bộ ba tiểu thuyết viết về quê hương của Tô Hoài cũng như với đời văn của ông và với văn học một thời. Cho đến nay, Tô Hoài là một trong số hiếm hoi các nhà văn xuất hiện từ thời tiền chiến, vẫn sáng tác, và vừa cho ra mắt tiểu thuyết Ba người khác (2007) đồng thời vẫn ấp ủ những trang viết về Hà Nội trước thời kỳ đổi mới. Kết thúc phần viết này, Hà Minh Đức đã chốt lại bằng một bài viết xen lẫn cảm hứng nghiên cứu và sáng tạo, một lần nữa khẳng định: Tô Hoài, một đời văn giàu sáng tạo.

Trong phần cuối cùng, Hà Minh Đức đã giới thiệu với người đọc sự đón đọc và tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài ở nước ngoài: Dế mèn phiêu lưu ký ở Liên Xô, Đọc Đảo hoang dịch ở Liên Xô, Cảm tưởng của các đoàn viên thiếu niên Sưmôrư ở Tôkyô về phim Kim Đồng... Bên cạnh những ghi chép về Tô Hoài, phần nghiên cứu tác phẩm Tô Hoài cùng các tư liệu bên ngoài cũng như của nhà văn nói về mình đã đem đến cho độc giả những thông tin hữu ích là thiết thực.
Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm là cuốn sách thể hiện sự gắn bó, ăn ý giữa nhà văn và nhà nghiên cứu. Nếu như trước đây đã có cuốn Tô Hoài - về tác gia và tác phẩm, tập hợp những bài viết về Tô Hoài thì hôm nay có thêm Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm, cuốn sách bổ trợ những hiểu biết về chủ thể sáng tạo. Cái nhìn khách quan của bạn đọc và cái nhìn chủ quan của nhà văn có sự gặp gỡ ngõ hầu đưa tới một cái nhìn toàn vẹn, đầy đặn hơn diện mạo của một nhân vật văn chương, có những bước đồng hành với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại. Với tư cách của một nhà nghiên cứu, Hà Minh Đức đã góp thêm một cách tiếp cận hiệu quả và có ý nghĩa về Tô Hoài nói riêng và về văn học nghệ thuật nói chung.

B.T
(SH222/08-2007)

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.

  • PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.