Sông Hương & Những định ngữ thi ca

14:38 17/10/2008
HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.

Nguyên xưa, dòng sông này có nhiều tên gọi, trong Ô Châu Cận Lục, Dương Văn An chép là sông Linh Giang. Theo dòng sử liệu, dòng sông này còn có các tên khác như sông Lô Dung, sông Dinh, sông Kim Trà và sau này mới được đổi thành Hương Giang như ngày nay.
Từ thượng nguồn đến hạ nguồn, sông Hương dài khoảng 100 km. Bắt đầu từ hai nguồn lớn, Tả Trạch và Hữu Trạch hợp với nhau tại ngã ba Bằng Lãng, từ đây với độ dài khoảng 30 km, sông Hương trở nên dịu dàng chảy vào lòng Huế rồi ầm ào ra biển Thuận An. Mang theo những phù sa của thiên nhiên, sông Hương quanh co chảy về biển khơi, tạo nên những làng mạc trù phú hình thành và phát triển từ bao đời nay.
Đoạn sông từ Kim Long đến Vĩ Dạ là điểm nhấn quan trọng và điển hình nhất của vẻ đẹp sông Hương, nhẹ nhàng thanh thoát như một tấm lụa của thiên nhiên. Từ những năm đầu tiên của thế kỷ XIX, khi xây dựng Kinh Thành Huế, các nhà kiến trúc đã chọn sông Hương làm yếu tố minh đường, là một yếu tố không thể thiếu trong quan niệm về thuật phong thủy lúc bấy giờ. Hai bên trước Kinh Thành là Cồn Hến và Cồn Dã Viên được xem là tả Thanh Longhữu Bạch Hổ, tạo nên cái thế vững chãi về tâm linh cho cả cụm kiến trúc Kinh Thành Huế.

Sông dài như kiếm dựng trời xanh
Sông Hương không chỉ là môi sinh lý tưởng của con người, nó còn là một biểu tượng thẩm mỹ của người dân xứ Huế. Sông đã chở trên mình những vỉa phù sa văn hóa, để nối từ thế hệ này sang thế hệ khác từng lớp quặng, cô lắng trong nhiều loại hình nghệ thuật, mà thơ ca là một điển hình.
Nhắc đến sông Hương, người ta nghĩ ngay đến con sông của thi, ca, nhạc, họa. Dòng sông này đã chở biết bao hứng khởi từ những tâm hồn lãng mạn.
Sông Hương với Tiên Điền Nguyễn Du, trong một dịp thu đến(1) thì: Hương Giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ hứa đa sầu: Một tấm trăng Hương Giang/ Xưa nay gieo nhiều nỗi buồn.

Những câu thơ tả cảnh rất tinh tế với những phát hiện mà đến bây giờ vẫn còn rất mới về dòng Hương. Nỗi sầu trong câu thơ không là một nỗi sầu cô quạnh, đơn độc, mà đó là cái sầu bi mang tính mỹ học, cái sầu trong cô tĩnh luôn làm trăn trở thi ca. Nhà thơ đau đáu một niềm nhân thế, đau đáu về thời vận, đau đáu về những mâu thuẫn giữa hiện thực và lý tưởng.

Sông Hương với Chu Thần Cao Bá Quát, trong một Buổi sớm qua sông Hương(2) thì: Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền/ Trường giang như kiếm lập thanh thiên: Muôn dãy non xanh ngát cánh đồng/ Sông dài như kiếm dựng trời xanh.
Thi sĩ thể hiện hạo khí của kẻ sĩ qua hình ảnh ví von sông dài như kiếm dựng trời xanh, đã làm nên một tượng đài ngôn ngữ muôn đời của dòng Hương. Sông thì như lưỡi kiếm, gió thì như chiếc gối, để thi nhân mơ mòng về nhân thế. Thi nhân Nương trận Nam Phong gối giấc nồng(3) như trước ông mấy thế kỷ, một danh sĩ Việt Nam là Trần Quang Khải từng Đè ngang ngọn gió đọc thơ chơi.
Đó là những hình ảnh đẹp và giàu tâm trạng.
Không gian nghệ thuật của Nguyễn Du và Cao Bá Quát được xác lập trên cơ sở của điểm nhìn, điểm ngắm của chủ thể sáng tạo (so với khách thể thẩm mỹ).

Căn cứ vào nội dung của toàn bài, điểm nhìn, điểm ngắm của Nguyễn Du là “ở trên bờ”, ở đây, nhãn tự trong bài thơ Thu chí của Nguyễn Du là:
phiến: mảnh, tấm, nó gợi lên một vật thể chiếm một diện tích theo chiều rộng trong không gian, phiếm chỉ sự dàn trải, mênh mông: Hương Giang nhất phiến nguyệt: một tấm trăng Hương Giang. Câu thơ thể hiện rõ nét quá trình xác lập tứ thơ: phiến nguyệt - tâm hồn - tỏ chí. Đó cũng là một quá trình vận động của tư duy, của sáng tạo, và tứ thơ ở đây là một ý chí vằng vặc (như trăng ở sông Hương).
Cũng
căn cứ vào nội dung của toàn bài, điểm nhìn, điểm ngắm của Cao Bá Quát là “ở giữa dòng” (trên thuyền), ở đây, nhãn tự trong câu thơ, bài thơ Hiểu quá Hương Giang của Cao Bá Quát là: trường: dài, xa, nó gợi lên một vật thể chiếm một diện tích theo chiều dài trong không gian, phiếm chỉ sự sâu thẳm, tít tắp: Trường giang như kiếm lập thanh thiên: sông dài như kiếm dựng trời xanh. Câu thơ cũng thể hiện rõ nét quá trình xác lập tứ thơ: trường giang - tâm hồn - tỏ chí. Đó cũng là một quá trình vận động của tư duy, của sáng tạo, và tứ thơ ở đây là một ý chí thăm thẳm (như dòng sông Hương)(4).

Với sông Hương, Cao Bá Quát còn có chùm thơ 10 bài tạp vịnh về Hương Giang(5). Qua những bài thơ này, chúng ta có thể cùng ông du lãm với sông Hương đến các địa danh như Kim Long, Hoàng Thành, Gia Hội, Bao Vinh. Du lãm để suy gẫm về nhân tình thế thái, để ngẫm nghĩ chuyện đời. Ví như:
Nhất đới duyên giang giáp đệ hùng/ Ngũ quân khai phủ chiếu tây đông/ Vinh khô tứ thập dư niên sự/ Chỉ kiến hà hoa tự cựu hồng: Ven sông lầu gác trập trùng/ Đồn quân, dinh tướng tây đông mấy toà/ Thịnh suy bốn chục năm qua/ Riêng sen vẫn giữ màu hoa đỏ hồng.

Dòng Hương còn là nơi các công trình kiến trúc truyền thống, những di tích cố đô Huế soi bóng và tự kiểm chứng lại mình. Con sông đã xe duyên nối các công trình với nhau thành một thể. Từ thượng nguồn sông Hương là một yếu tố cảnh quan gắn với các lăng tẩm xứ Huế như lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, theo dòng chảy về khơi lại tiếp tục gắn với một phức hệ kiến trúc như điện Hòn Chén, Văn Miếu, Võ Miếu, chùa Thiên Mụ... Phóng tầm mắt từ Kỳ Đài, sông Hương lại có một vẻ đẹp mới với một hệ thống công trình bao bọc điểm xuyết: từ Phu Văn Lâu đến Nghinh Lương Đình, từ cầu Trường Tiền đến thảm cây xanh dọc đôi bờ, xa hơn nữa là đỉnh Ngự Bình đã tạo nên một chỉnh thể hài hòa không có cơ hội để cắt xén. Do vậy, sông Hương cùng với núi Ngự, cầu Trường Tiền đã trở thành những biểu tượng tình cảm của Huế.

Trên điện Thái Hòa cũng xuất hiện 5 bài thơ ngũ ngôn tuyệt cú viết về sông Hương của các vị vua triều Nguyễn với tính chất vịnh cảnh để tỏ chí là một trong những đặc trưng của dòng văn học trung đại. Điển hình như:     
- Giang hà thông chúng thủy/ Bình chướng liệt quần sơn: Hương Giang mạch nước nối dòng/ Ngự Bình tiếp tiếp tầng không chan hòa.
- Trản lãnh lăng hư thú/ Hương giang triệt để thanh: Núi Trản điệp cả màu châu/ Sông Hương in bóng đáy sâu trong lành.
- Hương thủy đà Ngân đới/ Bình sơn kháng ỷ lưu: Sông Hương tiếp dải ngân hà/ Ngự Bình giăng mắc nắng qua lụa mềm v.v.


Trong tác phẩm Thần Kinh nhị thập cảnh(7) viết về 20 danh thắng của cố đô xưa, bài thơ Hương Giang hiểu phiếm(8) của vua Thiệu Trị không chỉ là một bài vịnh cảnh thuần túy. Nhà vua mượn việc tả cảnh để bày tỏ cái chí của mình, qua sông Hương vào buổi sớm, đã thấy trời đông hửng ánh dương. Đó là ánh dương của một triều đại, một bình minh lịch sử mà nhà vua là người đứng đầu của triều đại đó. Bài thơ được khắc trên bia đá đặt bên cạnh Phu Văn Lâu, ngày nay vẫn còn chứng tích: Nhất phái uyên nguyên hộ đế thành/ Thanh lưu sấn tảo nhạ lương sinh (…) Kỷ hồi hà hiết thương lang khúc/ Song khuyết phương thăng thụy nhật minh: Ôm lấy Kinh đô nước uốn dòng/ Thả thuyền ban sớm nhẹ thong dong (…) Bao lâu nào rõ dòng chưa dứt/ Đã thấy trời đông hửng ánh dương.

Nhà thơ Thiệu Trị quan sát thiên nhiên, quan sát sông Hương bằng một trực cảm tinh tế, nắm bắt kịp thời những chi tiết, những hình ảnh mà đôi khi chỉ ngưng tụ trong một khoảnh khắc: Thiên tửu vị can nhu ngạn thụ/ Sơn hoa do luyến kết vân anh: Cây cối vấn vương sương vẫn đẫm/ Cỏ hoa quyến luyến mây còn ngưng. Chỉ qua những hình ảnh mang tính gợi tả, nhưng vẫn khắc họa rất thành công những nét “sở thuộc” của sông Hương bằng bút pháp tinh tế và tình cảm chan chứa của nhà thơ.
Dòng sông Hương còn là một chứng nhân lịch sử, nó chở trên mình những chuyện vui buồn của thời gian. Trong lịch sử, dòng sông đã chở và chứng kiến biết bao câu chuyện nổi trôi đầy thân phận. Thảo Am Nguyễn Khoa Vy viết: Núi Ngự không cây cu ngủ đất/ Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời. Nhà thơ Tố Hữu viết: Trên dòng Hương Giang/ Em buông mái chèo…rồi Tình ơi gian dối là tình/ Thuyền em rách nát còn lành được không (Cô gái sông Hương). Đó là những cái nhìn nhân văn đầy cảm thông trước những phận gái giang hồ một thuở nào.

Ngay từ thời quân chủ, thân phận ấy cũng được bày ra trong những cảm thông xa xót của Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Công Trứ, dù sử dụng bút pháp hoạt kê, trào phúng nhưng bài thơ không vì vậy mà kém phần nhân văn. Thử xem: Trên sông một chiếc thuyền lan(9)/ Một cô gái Huế một quan đại thần/
Ban ngày quan lớn như thần/ Ban đêm quan lại tần mần như ma/ Ban ngày quan lớn như cha/ Ban đêm quan lại rầy rà như con. (10)
Sông Hương như thể chiếc gương góa chồng
Cảm hứng về dòng sông Hương vẫn còn chảy mãi đến tận nhiều đời tiếp nối. Theo những chuyến đò dọc, đò ngang, sông Hương cũng đã làm nên những điệu dân ca còn lưu truyền mãi. Hò mái nhì, mái đẩy cùng một số làn điệu khác là những điển hình cho điệu hò sinh thành trên sông nước. Và rất nhiều khúc ca, bản nhạc, tác phẩm mỹ thuật hình thành trên cảm hứng về dòng sông này.

Nhạc sĩ, họa sĩ, thi sĩ Văn Cao đã từng du lãm với mùa thu sông Hương bằng Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, để khi xa rồi, thi nhân cứ day dứt mãi và cuối cùng phải buột lên rằng: Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh.
Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh

Sông Hương với những khoảnh khắc của thời gian, với những quãng ngắt của không gian, luôn có thể tác động lên những tâm hồn lãng mạn. Ai từng sống với dòng sông này, luôn có thể bất chợt phát hiện ra rằng, sông Hương mỗi ngày thêm mỗi mới. Sau chiều nay, còn buổi chiều khác nữa/ Có thể mây cao, có thể nắng vàng trong bài thơ Chiều Hương Giang của Nguyễn Khoa Điềm là những khoảnh khắc về thời gian và quãng ngắt về không gian nghệ thuật làm nền cảm hứng của thi sĩ. Khoảnh khắc nhưng chiều nay vô tình trong nắng muộn/ Mắt tôi nhìn trong suốt nước Hương Giang là những phát hiện rất mới của thi sĩ.

Sông Hương vốn được biết bao ngôn từ dùng để ví von nhằm khắc họa hết tất cả những cái duyên ngầm và thi vị của nó, như đó là Điệu slow tình cảm; đó là người tài tử đánh đàn lúc đêm khuya, như đó là tấm lụa mềm vắt ngang thành phố với những lời ru vỗ du dương dành cho nó.
Với nhà thơ Thu Bồn, thì sông Hương là một hiện thực tâm hồn, nhà thơ viết: Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu. Phát hiện mới mẻ này đã làm bàng hoàng cả một diễn trình mỹ từ dành cho sông Hương. Đây là một phát hiện tinh tế, và tinh tế hơn khi thi sĩ đã nhận thức rất rõ rằng: sông Hương đã góp phần làm nên văn hóa Huế, Huế rất sâu là Huế của những tầng vỉa văn hóa truyền thống. Nhà thơ tạm biệt Huế, tạm biệt dòng Hương để ngẩn ngơ, lưu luyến đến nỗi đã hóa đá phía bên kia của ngọn Hải Vân hùng vĩ. Em trong bài thơ cũng chính là dòng Hương cùng tác giả tình tự.
Tạm biệt Huế với chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia.
(Tạm biệt)

Mỗi một nhà thơ đều có một cách bày tỏ xúc cảm trước dòng Hương Giang trữ tình. Nhà thơ Huy Tập đã giả định rằng, nếu như chẳng có sông Hương, thì không biết: gửi tình cho Huế, gửi thương nơi nào? Và cuối cùng là Nếu như chẳng có dòng Hương/ Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi. Nhà thơ xem dòng sông này là duyên cớ của những tứ thơ về Huế và do vậy sông Hương đã trở thành nỗi đam mê của thi nhân, trở thành duyên cớ gửi trao tình cảm.
Nguyễn Xuân Sanh lại có một định ngữ khác: Ai đến bên, lòng ta khẽ bảo/ Con đò: con mắt của sông Hương. Đến Huế, đến với sông Hương, thi sĩ nhận ra rằng, những con đò là hình ảnh gắn kết dòng sông này để làm nên tứ thơ: con đò - con mắt. Đó cũng là một định ngữ chính xác về không gian của sông Hương. Lại giả định rằng, nếu trên dòng sông này thiếu vắng những con đò thì ra sao nhỉ?
Ôi con đò con mắt yêu thương
Nhìn chúng ta say đắm lạ thường
Ai đến bên, lòng ta khẽ bảo:
Con đò: con mắt của sông Hương!

Riêng với sông Hương,
Trương Nam Hương lại có một định ngữ khác về dòng sông này: Hương Giang như thể chiếc gương góa chồng. Bài thơ thể hiện nỗi niềm thế sự được trình bày, hóa giải với sông Hương bằng một cái tôi trữ tình, cái tôi đối thoại với dòng sông.
Bao nhiêu hưng phế, thịnh suy không ai lường hết được, đó là quy luật. Nhà thơ hoài niệm về quá khứ, liên hệ với hiện tại để thức nhận rằng:
Khói sương dâu bể toan cầm
Lại e vương nỗi thăng trầm ngón tay
Chẳng hòa tan được rủi may
Huế cho không cả ly đầy… bóng vua
.
(Riêng với sông Hương)
 Khó có thể kể hết tất cả những hình ảnh đẹp đã trở thành định ngữ về dòng sông Hương trong lịch sử thi ca.

Bởi lẽ, mỗi một nhà thơ, khi đến với dòng sông này đều bị mê hoặc với sự huyền ảo của không gian tương tác giữa toàn bộ khách thể thẩm mỹ và chủ thể nhận thức. Đó là chiếc cầu nối đồng hiện của hai chiều hiện thực và tâm hồn.
Bởi lẽ, sông Hương tự bao đời như đã là di sản của tâm linh, của hiện thực đời sống Huế.
Êm đềm theo thời gian, sông Hương đã cuộn lên một dòng chảy văn hóa đầy sức sống.
             H.T

(nguồn: TCSH số 220 - 06 - 2007)

 




------------------------------
 (1) 
Dịch từ nhan đề một bài thơ của Nguyễn Du (Thu chí)
(2) Dịch từ nhan đề một bài thơ của Cao Bá Quát (Hiểu quá Hương Giang)
(3) Nguyên văn: Phả ái nam phong giác chẩm biên.

(4) Cũng có quan điểm cho rằng, nhãn tự của bài thơ này là (kiếm), nhưng bản chất của tứ thơ được xác lập ngay từ đầu là trường giang (sông dài), cái “sự dài” đã trở thành đường dẫn để bắt đầu, cái “sự dài” tác động trực tiếp để có hình ảnh gián tiếp mang tính so sánh, định dạng là kiếm. Do vậy, chữ trường phải hiểu là nhãn tự, có tính quyết định, chi phối, nó làm ám ảnh thi nhân và làm nảy sinh tứ thơ.
(5) Hương Giang tạp vịnh.
(6) Nguyên văn: Giải đảo đông phong, phú nhất thi: Đè ngược ngọn gió đông mà ngâm một bài thơ.
(7)
Thần Kinh nhị thập cảnh: Hai mươi cảnh đất Thần Kinh.
(8)
Hương Giang hiểu phiếm: Buổi sớm du thuyền trên sông Hương
(9) Thuyền lan: có bản chép là thuyền nan.
(10)
Như con: có bản chép là hơn con. Bài này không có đầu đề, phần chữ Nôm do chúng tôi lập vì không có bản gốc.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)

  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.