Sêkhov và Nam Cao - người trí thức và những cảnh sống thừa

14:53 16/09/2009
PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

Văn hào Sekhov - Ảnh: thvl.vn

Trong bối cảnh xã hội thực dân phong kiến trước 1945, những ý nguyện và băn khoăn như vậy, tuy cũng đáng trân trọng nhưng thực ra chỉ là ảo tưởng. Và chính các ông chủ của Tự lực văn đoàn khi vẽ ra những chuyện cải cách trong các trang ấp như xây giếng làm nhà, dạy người lớn biết vệ sinh, dạy trẻ con học chữ... họ cũng không tin vào các kết quả, bởi số phận người nông dân là không thể thay đổi; và rồi cũng đành đi đến kết luận như Vũ Trọng Phụng: Họ khổ mà không biết rằng mình khổ, âu thì mặc quách họ! Hoàn cảnh nước Nga dưới chế độ Sa hoàng và chủ nghĩa Tônxtôi có thể giúp ta hiểu lý tưởng và hành trang của Lêvin và Kitti trong Anna Karênina, còn hoạt động của Hạc - Bảo, Duy - Thơ trong Gia đìnhCon đường sáng của Khái Hưng, Hoàng Đạo chỉ là một bản sao mờ nhạt của những ước mơ và ảo tưởng, không thể nào thực hiện trong xã hội thuộc địa. Tính chất xa thực tế, đưa con người trốn vào những ao ước không tưởng, là đặc trưng của trào lưu lãng mạn khiến cho người trí thức trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn chỉ là hồi quang xa xôi, mơ hồ của những ảo vọng thoát ly và đối lập với hiện thực.

Một hình ảnh trung thực về người trí thức trong xã hội thuộc địa phải đến Nam Cao mới xuất hiện. Trước ông, trong văn học hiện thực còn chưa có. Ở đây không nói đến những "hủ Nho" của nền học cũ, trong thơ văn của các chí sĩ đầu thế kỷ. Đó là người trí thức vừa trong chật vật của sự mưu sinh, vừa trong bi kịch của những thất vọng và bế tắc tinh thần. Khơi sâu được vào trong những bi kịch của người trí thức trong xã hội thuộc địa - đó là nét đặc trưng và cũng là đóng góp của Nam Cao trong giai đoạn kết thúc văn học hiện thực Việt Nam trước 1945.

Sự thật thì người trí thức chưa bao giờ là một hình ảnh nổi đậm và có vai trò riêng trong đời sống xã hội phong kiến và thuộc địa ở Việt Nam, bởi chưa bao giờ họ có đủ tiềm lực để cùng đồng hành hoặc là hậu thuẫn cho các giai tầng cơ bản làm nên một cuộc cách mạng trong lịch sử. Bởi cho đến trước 1945 một cuộc cách mạng như thế trong xã hội Việt Nam là chưa có, mà chỉ có những cuộc khởi nghĩa hoặc bạo động của nông dân mà thôi. Đó là lý do khiến cho vấn đề người trí thức như một lực lượng tinh thần, với các cuộc hành trình hoặc phấn chấn hoặc đau khổ của họ, nếu đã là một chủ đề lớn trong văn học phương Tây, gồm cả văn học Nga, thì ở ta, nó chưa bao giờ trở thành vấn đề, càng chưa là chủ đề quan trọng ngay cả trong văn học hiện đại. Phải vào những năm 40, với Nam Cao, Thạch Lam và Nguyễn Huy Tưởng... vấn đề người trí thức mới xuất hiện, trên một số khía cạnh vừa gắn bó, vừa độc lập với các vấn đề chung của nhân dân và dân tộc.

Đặt trong số phận dân tộc thì khát vọng của người trí thức trong xã hội phong kiến - thuộc địa tuyệt không thể xa lạ hoặc ra ngoài ước vọng chung của nhân dân. Đó là "làm thế nào cho được sống. Cơm! Áo! Sự an toàn. Tương lai của mình. Tương lai của các con. Sống! Sống! Tất cả sự quan hệ là ở đó. Phải làm thế nào cho được sống, được ngước mắt lên, được thở hít tự do, cùng với tất cả mọi người..." như trong kết thúc Sống mòn. Nhưng là trí thức nên mỗi người trong họ không ai không có lúc nuôi trong mình một ít ao ước và ham muốn cho đời sống tinh thần - nó là một cái gì rộng hơn chuyện áo cơm, vượt ra khỏi bản thân, để có chút gì đóng góp cho nhân quần, dẫu chỉ trong vai một nhà giáo để cải thiện môi trường học vấn cho đám học trò nghèo, hoặc một nhà văn có tác phẩm được người đọc để ý...

"Thứ vẫn không thể nào chịu được rằng sống chỉ là làm thế nào cho mình và vợ con mình có cơm ăn, áo mặc thôi. Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quí hơn nhiều. Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở trong mình. Phải gom góp sức lực của mình vào công cuộc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi phải để lại một chút gì cho nhân loại".

Nhưng mục tiêu đó, dẫu chỉ vươn lên hơn chuyện áo cơm một ít; dẫu chỉ vượt ra ngoài bản thân hơn một chút, cũng gặp biết bao khó khăn, và đâu dễ thực hiện trong xã hội thuộc địa. Và câu trả lời của Nam Cao cho tất cả những mong ước nhỏ nhoi đó của người trí thức - là một sự thất vọng, rồi tuyệt vọng. Tất cả họ, gồm cả những ao ước đơn sơ của họ đều bị nhận chìm trong cảnh "sống mòn"; nó là cái chết trong cõi sống, hoặc là một sự sống đang đi dần vào cõi chết. Nó là chết mòn hoặc sống mòn, thì cũng vậy! Câu chuyện Sống mòn, do thế, trở thành một ám ảnh, một thức nhận, một phát hiện của Nam Cao, để trở thành cái riêng trong bức tranh hiện thực Nam Cao, trong hình ảnh của người trí thức kiểu Nam Cao.


(Nhà văn Nam Cao - Ảnh: vnca.cand.com.vn)

 


Viết về thân phận người trí thức nghèo trong số phận chung của người trí thức, Sống mòn là cuốn tiểu thuyết kết thúc sự nghiệp viết của Nam Cao trước 1945; cũng là cuốn tiểu thuyết kết tinh trọn vẹn gương mặt hiện đại của văn học Việt Nam - sau 30 năm hình thành và phát triển.

Trước Sống mòn, và như là sự bổ sung và hoàn thiện cảnh ngộ "sống mòn" là những kiếp "đời thừa", qua số phận của những Điền và Hộ trong Nước mắt, Giăng sáng, Đời thừa... Đời thừa với những kiếp sống mà như thừa. Sống mà như lạc ra ngoài dòng đời. Sống trong dẫy dụa, quẫy cựa để thoát ra khỏi một vòng quay nghiệt ngã của số phận; nhưng càng dẫy dụa lại càng lún sâu hơn vào bi kịch và bất hạnh.

Những kiếp sống thừa, những cảnh đời thừa, để tìm dấu ấn của nó trong văn học Nga phải đi ngược lên một thế kỷ, để đến với những con người thừa như Ônêghin trong Épghênhi Ônêghin của Puskin, như Pétsôrin trong Nhân vật của thời đại chúng ta của Lecmontov. Những liên hệ này có thể là hơi xa. Bởi "con người thừa” trong văn học Nga - tất cả đều thuộc tầng lớp trên, họ không phải lo toan chuyện áo cơm. Bi kịch của họ chỉ là không tìm thấy mục đích sống, ý nghĩa sống trong xã hội Sa hoàng. Họ đã hoài phí đời mình vào những cuộc ăn chơi vô bổ; càng sống càng thấy chán; và một cái chết thật trong đấu súng, hoặc một cái chết về tinh thần - đó là sự kết thúc cho cả một đời dằn vặt. Đến Sêkhov - sau ngót nửa thế kỷ, thấy không còn những con người thừa, nhưng lại tràn ngập những cuộc sống thừa, những cảnh đời thừa, vô vị, nhàm tẻ, đơn điệu, trống rỗng, tự huyễn hoặc mình và đầu độc bầu không khí chung quanh...

Trong Người vợ chưa cưới, nhân vật Xaxa nói với Nađia sự ngạc nhiên thấy những người quanh anh, chẳng ai chịu làm việc gì. "Có trời mà biết tại sao không một ai làm gì cả (...) Nếu như má cô, bà nội cô không làm gì chẳng hạn thì phải có người nào đó làm việc thay các vị, các vị đã cướp mất cuộc sống của người khác, lẽ nào cái đó lại là trong sạch, lại không nhơ nhuốc?".

Nhân vật cô giáo Masa trong Ba chị em nói: "Phải biết tại sao mình sống? Nếu không tất cả chỉ là nhảm nhí. Tất cả chỉ là vô nghĩa.".

Để chống lại và tiêu diệt sự lười biếng, con người phải lao động. Đã rất nhiều lần, cả trong truyện và kịch, Sêkhov cất lên tiếng kêu khẩn thiết: phải lao động. Bởi cuộc sống của giới trí thức như ông nhìn thấy là quá lười biếng, nhàm chán và vô nghĩa... Trong kịch Ba chị em, ông để Irina nói: "... Người ta bất cứ ai cũng phải làm việc, cũng phải đổ mồ hôi đổi lấy miếng ăn - đó là ý nghĩa và mục đích cuộc đời, hạnh phúc và niềm phấn khởi của con người. Vui sướng thay được làm người thợ dậy từ tờ mờ sáng đập đá trên đường; hay người chăn cừu, hay người giáo viên dạy trẻ học, hay người thợ máy trên đầu máy xe lửa của anh ta... Trời ơi! Thà làm một con bò hay một con ngựa mà làm việc, cũng còn hơn cái người thiếu phụ ngủ đẫy giấc đến trưa mới dậy, uống cà phê ngay trên giường và ngắm mốt áo quần đến hàng hai tiếng đồng hồ..." Và qua Tudanbich, ông cho nhân vật mơ ước: "Đã đến lúc cơn giông tố sẽ đến với chúng ta; một cơn bão mãnh liệt, tốt lành đang hình thành, chẳng bao lâu nữa sẽ cuốn đi khỏi xã hội chúng ta sự lãnh đạm, lười nhác, thái độ khinh thường lao động, sự buồn tẻ mốc meo đến lợm giọng".

Nam Cao trong Sống mòn cho nhân vật Thứ nói: "Tôi chỉ yêu sự làm việc và những người làm việc mà thôi. Theo ý tôi phải diệt cho hết những kẻ ngồi không, hưởng những thức của kẻ khác làm ra mà chẳng làm ra được cái gì. Ai cũng phải làm, ai làm cũng phải được no đủ, tự do, mà chỉ những ai làm mới được no đủ, tự do".

Trong Cậu Vania, lão giáo sư Xerebriacốp - thần tượng để cả đại gia đình khúm núm vâng dạ là một nhà khoa học giả danh; thế mà tất cả những người vây quanh ông ta đều đã phí cả một đời để phục dịch. Điều khủng khiếp ở đây là khi những giá trị giả, sự giả danh ở gã giáo sư bị lật tẩy. Nhưng điều còn khủng khiếp hơn là, sau sự lật tẩy đó, mọi chuyện đời lại cứ bình yên như cũ, dẫu một phát súng đã bắn ra từ lòng căm thù của cậu em Vania đối với người anh rể - giáo sư lúc này đã trơ ra là một cục đất thó; thế mà lão vẫn không hết thói quen hợm hĩnh, hách dịch.

Trong Ba chị em, cái ao ước được trở về Matxcơva có ý nghĩa như là sự giải thoát cho cuộc sống buồn tẻ ở cái tỉnh lẻ này. Nhưng rồi cuối cùng chẳng có cuộc đi nào được thực hiện. Và sự ngán ngẩm đối với cuộc sống, được Sêkhov đặt vào lời ông giáo sư trung học Andrei Xecghêvich Prozorov - một thành viên là người anh cả của gia đình:

"Tại sao chúng ta mới bắt đầu cuộc sống mà chúng ta đã trở nên buồn tẻ, nhạt nhẽo, tầm thường, lười biếng, chán chường, vô dụng, khổ sở... Thành phố của chúng ta có từ hai trăm năm nay, gồm mười vạn dân số, mà không có lấy một người nào là không giống như tất cả mọi người khác; không có lấy một anh hùng trong dĩ vãng, trong hiện tại, không có lấy một học giả, một họa sĩ hoặc một người ít nhất gọi là xuất sắc để có thể khiến cho người khác hâm mộ hoặc khát khao bắt chước họ... Mọi người chỉ biết ăn, uống, ngủ và rồi chết... Kẻ khác sinh ra và họ cũng lại ăn uống, ngủ, và để cho khỏi hoàn toàn u mê đi vì buồn chán, họ đem lại thay đổi cho cuộc đời họ bằng những chuyện vu khống hèn hạ, bằng rượu vốt ca, bài bạc và hiềm khích lẫn nhau... Rồi vợ thì lừa chồng, chồng thì dối trá, và cùng làm ngơ như không trông thấy gì, không nghe thấy gì hết; cái gương xấu đó không tránh khỏi ảnh hưởng đến con cái và dập tắt luôn cái tia lửa thần thánh trong người chúng, và chúng trở thành những cái xác chết cũng thảm hại hệt như là bố mẹ chúng".

Một nhân vật khác của kịch, thiếu tá Vecsinin, trong câu chuyện với Masa, cũng nói đến cái gọi là nỗi khổ của giới trí thức: "Cứ nghe chuyện một người trí thức ở đây, không kể là viên chức hay quân nhân, thì toàn là chuyện anh ta khổ sở vì vợ của anh ta, khổ vì nhà cửa của anh ta, khổ vì sản nghiệp của anh ta, khổ vì ngựa của anh ta. Người Nga vốn vẫn dễ có tư tưởng cao siêu hơn bất cứ ai, nhưng cứ thử bảo tại sao, trong cuộc đời, anh ta lại sống thấp kém như thế? Tại sao?"

Thế giới truyện của Nam Cao cũng không thiếu những cắn rứt, vò xé nhau. Một ông phán, láng giềng của Điền trong Nước mắt: "Nhà ông chẳng lúc nào yên, đàn trẻ khóc như ri. Mẹ chồng nghiến rứt con dâu, con dâu cãi lại mẹ chồng. Cô em nói mỉa mai. Chỉ vì người nào cũng khổ cả, và người nọ cứ tưởng vì người kia mà khổ ". Thứ trong Sống mòn cũng luôn luôn đặt ra câu hỏi về ý nghĩa sống: "Nhưng thật ra thì ăn no đã đủ đâu? Nếu sống mà không thấy sống là vui, thì thật không đáng sống. Chao ôi! Cuộc sống như cuộc sống của chúng ta đang sống bây giờ đã thật có gì đáng cho ta thấy vui chưa? Người ta ghét nhau hoặc yêu nhau, nhưng bao giờ cũng làm khổ nhau cả. Tại sao như vậy?".

Câu hỏi không được trả lời, nhưng người đọc, người xem thì hẳn ai cũng hiểu. Đó là một cuộc sống quá ươn hèn và thấp kém về tinh thần, không có gì cao hơn bản thân một chút; không mang lại được một chút giá trị gì về tâm hồn và trí tuệ cho người khác - vốn thường phải là mối quan tâm của người trí thức.

Nói cho thật đúng thì với Sêkhôv - những con người biết sống vì một mục đích cao hơn bản thân, mong đem lại một ý nghĩa tích cực đối với đời, cũng có, dẫu còn hiếm. Đó là bác sĩ Đưmốp trong Người đàn bà phù phiếm, tận tụy trong việc cứu người, và cuối cùng phải chết vì căn bệnh của người đã được cứu sống. Nhưng điều đáng thương tâm hơn là ông đã không nhận được bất cứ sự chăm nom nào của vợ, một "người đàn bà phù phiếm"; và ông cam chịu sự lạnh lẽo đó, không một lời chê trách. Bác sĩ Raghin trong Phòng số 6 cũng là một người lương thiện, nhưng vì sự nhu nhược, thỏa hiệp với cái ác, nên đã bị đẩy vào nhà thương điên.

Vậy là những ai muốn có một cuộc sống có ý nghĩa, muốn sống cho ra con người thì phải tìm đến một khẩu súng, hoặc phải đi khám bệnh, hoặc vào nhà thương điên... Còn số lớn đều phải chấp nhận tình trạng tù đọng, và với tâm lý thụ động, không mong và không tin hoàn cảnh có thể thay đổi. Bởi chính họ là hiện thân của sự từ đọng đó.

Sêkhov, người nhìn thấu tận đáy chiều sâu bi kịch đó, đã từng được Gorki hình dung như sau: Đó là "một con người lớn lao, thông minh, biết quan tâm đến mọi sự, đi qua bên cạnh cái đám tẻ nhạt, tối tăm của những con người bất lực kia. Người ấy nhìn đồng bào chán ngắt của mình và với một nụ cười buồn buồn, với một giọng trách móc nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, với một nỗi u hoài vô hy vọng trên gương mặt và trong tâm can, cất tiếng nói chân thành và đẹp đẽ:

- "Các ngài sống tồi lắm, các ngài ạ! "

Chính Sêkhov cũng có lần nói: "Tôi chỉ muỗn nói thật, nói thẳng với mọi người rằng: Hãy nhìn lại mình, hãy nhìn xem chúng ta đang sống tồi, sống tẻ như thế nào?".

Nửa thế kỷ trước Sêkhov, Puskin sau khi đọc Những linh hồn chết của Gôgôn đã phải kêu lên: "Trời ơi! Nước Nga của chúng ta sầu thảm xiết bao!"

Nhận rõ mọi tội trạng và thảm họa của nền chuyên chế Sa hoàng đối với mọi tầng lớp người; cái nhìn phê phán và sự thất vọng đối với giới trí thức - đó là chủ đề nổi đậm trong văn học Nga. Một nền văn học đã là biểu trưng cho những giá trị dân chủ và nhân văn vô cùng quý giá chống lại sự ngược đãi con người, chống lại sự trì đọng của trí tuệ, chống lại sự bạc nhược của giới trí thức; và bao trùm là một khát vọng tự do "thoát ra khỏi cái hơi ngạt độc đoán chuyên chế, nó làm nghẹn ngào và nghẹt thở bao tâm hồn con người, kể cả người xấu lẫn người tốt"(1`), một khát vọng tự do, cao hơn tất cả mọi sự kềm kẹp, trói buộc, đè nén, áp bức, dẫu là đến từ bất cứ đâu - là nước Nga Sa hoàng; là nền thống trị của chủ nghĩa tư bản trên toàn Châu Âu, rồi chủ nghĩa đế quốc trên toàn thế giới; là bất cứ thể chế chính trị xã hội nào muốn biến con người thành nô lệ, muốn nhận chìm con người vào đáy sâu thói nô lệ.

Một nền văn học Nga được viết bởi những tên tuổi cực kỳ sáng giá nhằm vào sự giải phóng con người ra khỏi mọi trạng thái nô lệ. Được viết bởi những người thật sự đã xả thân cho sự nghiệp đó, không chỉ bằng cây bút, mà bằng cả sinh mệnh của mình. Không một ai trong những tên tuổi lớn của văn học Nga - cho đến Sêkhov là thỏa hiệp với chế độ Sa hoàng; và tất cả đều chấp nhận những rủi ro bất hạnh cho mình, đến từ thể chế đó - người thì bị đẩy vào những cuộc đấu súng, người bị điên, người tự tử, người bị lưu đày, người vào hầm cầm cố...

Khát vọng tự do, khát vọng giải phóng cho các năng lượng tinh thần qúi giá ở con người - đó là tiếng kêu của Sêkhov. Ở một quy mô nhỏ hẹp hơn - tiếng kêu của Nam Cao cũng không phải là không khẩn thiết:

"Chết là thường. Chết ngay trong lúc sống mới là nhục nhã"... "Cái đầu tóc mới nuôi có bao giờ thèm mong sau này làm một ông phán bình thường, mắt cận thị và lưng gù, tháng tháng lĩnh lương về nuôi vợ, nuôi con...".

"Nay mai mới thật buồn. Y sẽ chẳng có việc gì làm, y sẽ ăn bám vợ. Đời y sẽ mốc lên, sẽ rỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục ra ở một xó nhà quê. Người ta sẽ khinh y, chính y sẽ khinh y. Rồi y sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống".

"Đời họ là một đời tù đày. Nhưng cũng như một con trâu, họ vẫn cắm cúi kéo cày, ăn cỏ, chịu roi. Ở bên kia những cánh đồng bùn lầy, là rừng xanh, cuộc sống tự do, cỏ ngập sừng. Con trâu có lẽ cũng biết vậy, nhưng chẳng bao giờ nó dám đi, chẳng bao giờ nó dám dứt đứt sợi giây thừng. Cái gì giữ con trâu lại đồng bằng và ngăn người ta đến một cuộc đời rộng rãi hơn, đẹp đẽ hơn? Ấy là thói quen, lòng sợ hãi sự đổi thay, sợ hãi những cái gì chưa tới. Ấy thế mà trên đời này lại chẳng có cái gì tới hai lần. Sống tức là thay đổi".

P.L
(187/09-04)


----------------------------
(1) Nguyễn Tuân: Đọc Sêkhov; Truyện ngắn tuyển tập; NXB Hội Nhà văn; H; 1957


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.