Sêkhov và Nam Cao - người trí thức và những cảnh sống thừa

14:53 16/09/2009
PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

Văn hào Sekhov - Ảnh: thvl.vn

Trong bối cảnh xã hội thực dân phong kiến trước 1945, những ý nguyện và băn khoăn như vậy, tuy cũng đáng trân trọng nhưng thực ra chỉ là ảo tưởng. Và chính các ông chủ của Tự lực văn đoàn khi vẽ ra những chuyện cải cách trong các trang ấp như xây giếng làm nhà, dạy người lớn biết vệ sinh, dạy trẻ con học chữ... họ cũng không tin vào các kết quả, bởi số phận người nông dân là không thể thay đổi; và rồi cũng đành đi đến kết luận như Vũ Trọng Phụng: Họ khổ mà không biết rằng mình khổ, âu thì mặc quách họ! Hoàn cảnh nước Nga dưới chế độ Sa hoàng và chủ nghĩa Tônxtôi có thể giúp ta hiểu lý tưởng và hành trang của Lêvin và Kitti trong Anna Karênina, còn hoạt động của Hạc - Bảo, Duy - Thơ trong Gia đìnhCon đường sáng của Khái Hưng, Hoàng Đạo chỉ là một bản sao mờ nhạt của những ước mơ và ảo tưởng, không thể nào thực hiện trong xã hội thuộc địa. Tính chất xa thực tế, đưa con người trốn vào những ao ước không tưởng, là đặc trưng của trào lưu lãng mạn khiến cho người trí thức trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn chỉ là hồi quang xa xôi, mơ hồ của những ảo vọng thoát ly và đối lập với hiện thực.

Một hình ảnh trung thực về người trí thức trong xã hội thuộc địa phải đến Nam Cao mới xuất hiện. Trước ông, trong văn học hiện thực còn chưa có. Ở đây không nói đến những "hủ Nho" của nền học cũ, trong thơ văn của các chí sĩ đầu thế kỷ. Đó là người trí thức vừa trong chật vật của sự mưu sinh, vừa trong bi kịch của những thất vọng và bế tắc tinh thần. Khơi sâu được vào trong những bi kịch của người trí thức trong xã hội thuộc địa - đó là nét đặc trưng và cũng là đóng góp của Nam Cao trong giai đoạn kết thúc văn học hiện thực Việt Nam trước 1945.

Sự thật thì người trí thức chưa bao giờ là một hình ảnh nổi đậm và có vai trò riêng trong đời sống xã hội phong kiến và thuộc địa ở Việt Nam, bởi chưa bao giờ họ có đủ tiềm lực để cùng đồng hành hoặc là hậu thuẫn cho các giai tầng cơ bản làm nên một cuộc cách mạng trong lịch sử. Bởi cho đến trước 1945 một cuộc cách mạng như thế trong xã hội Việt Nam là chưa có, mà chỉ có những cuộc khởi nghĩa hoặc bạo động của nông dân mà thôi. Đó là lý do khiến cho vấn đề người trí thức như một lực lượng tinh thần, với các cuộc hành trình hoặc phấn chấn hoặc đau khổ của họ, nếu đã là một chủ đề lớn trong văn học phương Tây, gồm cả văn học Nga, thì ở ta, nó chưa bao giờ trở thành vấn đề, càng chưa là chủ đề quan trọng ngay cả trong văn học hiện đại. Phải vào những năm 40, với Nam Cao, Thạch Lam và Nguyễn Huy Tưởng... vấn đề người trí thức mới xuất hiện, trên một số khía cạnh vừa gắn bó, vừa độc lập với các vấn đề chung của nhân dân và dân tộc.

Đặt trong số phận dân tộc thì khát vọng của người trí thức trong xã hội phong kiến - thuộc địa tuyệt không thể xa lạ hoặc ra ngoài ước vọng chung của nhân dân. Đó là "làm thế nào cho được sống. Cơm! Áo! Sự an toàn. Tương lai của mình. Tương lai của các con. Sống! Sống! Tất cả sự quan hệ là ở đó. Phải làm thế nào cho được sống, được ngước mắt lên, được thở hít tự do, cùng với tất cả mọi người..." như trong kết thúc Sống mòn. Nhưng là trí thức nên mỗi người trong họ không ai không có lúc nuôi trong mình một ít ao ước và ham muốn cho đời sống tinh thần - nó là một cái gì rộng hơn chuyện áo cơm, vượt ra khỏi bản thân, để có chút gì đóng góp cho nhân quần, dẫu chỉ trong vai một nhà giáo để cải thiện môi trường học vấn cho đám học trò nghèo, hoặc một nhà văn có tác phẩm được người đọc để ý...

"Thứ vẫn không thể nào chịu được rằng sống chỉ là làm thế nào cho mình và vợ con mình có cơm ăn, áo mặc thôi. Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quí hơn nhiều. Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở trong mình. Phải gom góp sức lực của mình vào công cuộc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi phải để lại một chút gì cho nhân loại".

Nhưng mục tiêu đó, dẫu chỉ vươn lên hơn chuyện áo cơm một ít; dẫu chỉ vượt ra ngoài bản thân hơn một chút, cũng gặp biết bao khó khăn, và đâu dễ thực hiện trong xã hội thuộc địa. Và câu trả lời của Nam Cao cho tất cả những mong ước nhỏ nhoi đó của người trí thức - là một sự thất vọng, rồi tuyệt vọng. Tất cả họ, gồm cả những ao ước đơn sơ của họ đều bị nhận chìm trong cảnh "sống mòn"; nó là cái chết trong cõi sống, hoặc là một sự sống đang đi dần vào cõi chết. Nó là chết mòn hoặc sống mòn, thì cũng vậy! Câu chuyện Sống mòn, do thế, trở thành một ám ảnh, một thức nhận, một phát hiện của Nam Cao, để trở thành cái riêng trong bức tranh hiện thực Nam Cao, trong hình ảnh của người trí thức kiểu Nam Cao.


(Nhà văn Nam Cao - Ảnh: vnca.cand.com.vn)

 


Viết về thân phận người trí thức nghèo trong số phận chung của người trí thức, Sống mòn là cuốn tiểu thuyết kết thúc sự nghiệp viết của Nam Cao trước 1945; cũng là cuốn tiểu thuyết kết tinh trọn vẹn gương mặt hiện đại của văn học Việt Nam - sau 30 năm hình thành và phát triển.

Trước Sống mòn, và như là sự bổ sung và hoàn thiện cảnh ngộ "sống mòn" là những kiếp "đời thừa", qua số phận của những Điền và Hộ trong Nước mắt, Giăng sáng, Đời thừa... Đời thừa với những kiếp sống mà như thừa. Sống mà như lạc ra ngoài dòng đời. Sống trong dẫy dụa, quẫy cựa để thoát ra khỏi một vòng quay nghiệt ngã của số phận; nhưng càng dẫy dụa lại càng lún sâu hơn vào bi kịch và bất hạnh.

Những kiếp sống thừa, những cảnh đời thừa, để tìm dấu ấn của nó trong văn học Nga phải đi ngược lên một thế kỷ, để đến với những con người thừa như Ônêghin trong Épghênhi Ônêghin của Puskin, như Pétsôrin trong Nhân vật của thời đại chúng ta của Lecmontov. Những liên hệ này có thể là hơi xa. Bởi "con người thừa” trong văn học Nga - tất cả đều thuộc tầng lớp trên, họ không phải lo toan chuyện áo cơm. Bi kịch của họ chỉ là không tìm thấy mục đích sống, ý nghĩa sống trong xã hội Sa hoàng. Họ đã hoài phí đời mình vào những cuộc ăn chơi vô bổ; càng sống càng thấy chán; và một cái chết thật trong đấu súng, hoặc một cái chết về tinh thần - đó là sự kết thúc cho cả một đời dằn vặt. Đến Sêkhov - sau ngót nửa thế kỷ, thấy không còn những con người thừa, nhưng lại tràn ngập những cuộc sống thừa, những cảnh đời thừa, vô vị, nhàm tẻ, đơn điệu, trống rỗng, tự huyễn hoặc mình và đầu độc bầu không khí chung quanh...

Trong Người vợ chưa cưới, nhân vật Xaxa nói với Nađia sự ngạc nhiên thấy những người quanh anh, chẳng ai chịu làm việc gì. "Có trời mà biết tại sao không một ai làm gì cả (...) Nếu như má cô, bà nội cô không làm gì chẳng hạn thì phải có người nào đó làm việc thay các vị, các vị đã cướp mất cuộc sống của người khác, lẽ nào cái đó lại là trong sạch, lại không nhơ nhuốc?".

Nhân vật cô giáo Masa trong Ba chị em nói: "Phải biết tại sao mình sống? Nếu không tất cả chỉ là nhảm nhí. Tất cả chỉ là vô nghĩa.".

Để chống lại và tiêu diệt sự lười biếng, con người phải lao động. Đã rất nhiều lần, cả trong truyện và kịch, Sêkhov cất lên tiếng kêu khẩn thiết: phải lao động. Bởi cuộc sống của giới trí thức như ông nhìn thấy là quá lười biếng, nhàm chán và vô nghĩa... Trong kịch Ba chị em, ông để Irina nói: "... Người ta bất cứ ai cũng phải làm việc, cũng phải đổ mồ hôi đổi lấy miếng ăn - đó là ý nghĩa và mục đích cuộc đời, hạnh phúc và niềm phấn khởi của con người. Vui sướng thay được làm người thợ dậy từ tờ mờ sáng đập đá trên đường; hay người chăn cừu, hay người giáo viên dạy trẻ học, hay người thợ máy trên đầu máy xe lửa của anh ta... Trời ơi! Thà làm một con bò hay một con ngựa mà làm việc, cũng còn hơn cái người thiếu phụ ngủ đẫy giấc đến trưa mới dậy, uống cà phê ngay trên giường và ngắm mốt áo quần đến hàng hai tiếng đồng hồ..." Và qua Tudanbich, ông cho nhân vật mơ ước: "Đã đến lúc cơn giông tố sẽ đến với chúng ta; một cơn bão mãnh liệt, tốt lành đang hình thành, chẳng bao lâu nữa sẽ cuốn đi khỏi xã hội chúng ta sự lãnh đạm, lười nhác, thái độ khinh thường lao động, sự buồn tẻ mốc meo đến lợm giọng".

Nam Cao trong Sống mòn cho nhân vật Thứ nói: "Tôi chỉ yêu sự làm việc và những người làm việc mà thôi. Theo ý tôi phải diệt cho hết những kẻ ngồi không, hưởng những thức của kẻ khác làm ra mà chẳng làm ra được cái gì. Ai cũng phải làm, ai làm cũng phải được no đủ, tự do, mà chỉ những ai làm mới được no đủ, tự do".

Trong Cậu Vania, lão giáo sư Xerebriacốp - thần tượng để cả đại gia đình khúm núm vâng dạ là một nhà khoa học giả danh; thế mà tất cả những người vây quanh ông ta đều đã phí cả một đời để phục dịch. Điều khủng khiếp ở đây là khi những giá trị giả, sự giả danh ở gã giáo sư bị lật tẩy. Nhưng điều còn khủng khiếp hơn là, sau sự lật tẩy đó, mọi chuyện đời lại cứ bình yên như cũ, dẫu một phát súng đã bắn ra từ lòng căm thù của cậu em Vania đối với người anh rể - giáo sư lúc này đã trơ ra là một cục đất thó; thế mà lão vẫn không hết thói quen hợm hĩnh, hách dịch.

Trong Ba chị em, cái ao ước được trở về Matxcơva có ý nghĩa như là sự giải thoát cho cuộc sống buồn tẻ ở cái tỉnh lẻ này. Nhưng rồi cuối cùng chẳng có cuộc đi nào được thực hiện. Và sự ngán ngẩm đối với cuộc sống, được Sêkhov đặt vào lời ông giáo sư trung học Andrei Xecghêvich Prozorov - một thành viên là người anh cả của gia đình:

"Tại sao chúng ta mới bắt đầu cuộc sống mà chúng ta đã trở nên buồn tẻ, nhạt nhẽo, tầm thường, lười biếng, chán chường, vô dụng, khổ sở... Thành phố của chúng ta có từ hai trăm năm nay, gồm mười vạn dân số, mà không có lấy một người nào là không giống như tất cả mọi người khác; không có lấy một anh hùng trong dĩ vãng, trong hiện tại, không có lấy một học giả, một họa sĩ hoặc một người ít nhất gọi là xuất sắc để có thể khiến cho người khác hâm mộ hoặc khát khao bắt chước họ... Mọi người chỉ biết ăn, uống, ngủ và rồi chết... Kẻ khác sinh ra và họ cũng lại ăn uống, ngủ, và để cho khỏi hoàn toàn u mê đi vì buồn chán, họ đem lại thay đổi cho cuộc đời họ bằng những chuyện vu khống hèn hạ, bằng rượu vốt ca, bài bạc và hiềm khích lẫn nhau... Rồi vợ thì lừa chồng, chồng thì dối trá, và cùng làm ngơ như không trông thấy gì, không nghe thấy gì hết; cái gương xấu đó không tránh khỏi ảnh hưởng đến con cái và dập tắt luôn cái tia lửa thần thánh trong người chúng, và chúng trở thành những cái xác chết cũng thảm hại hệt như là bố mẹ chúng".

Một nhân vật khác của kịch, thiếu tá Vecsinin, trong câu chuyện với Masa, cũng nói đến cái gọi là nỗi khổ của giới trí thức: "Cứ nghe chuyện một người trí thức ở đây, không kể là viên chức hay quân nhân, thì toàn là chuyện anh ta khổ sở vì vợ của anh ta, khổ vì nhà cửa của anh ta, khổ vì sản nghiệp của anh ta, khổ vì ngựa của anh ta. Người Nga vốn vẫn dễ có tư tưởng cao siêu hơn bất cứ ai, nhưng cứ thử bảo tại sao, trong cuộc đời, anh ta lại sống thấp kém như thế? Tại sao?"

Thế giới truyện của Nam Cao cũng không thiếu những cắn rứt, vò xé nhau. Một ông phán, láng giềng của Điền trong Nước mắt: "Nhà ông chẳng lúc nào yên, đàn trẻ khóc như ri. Mẹ chồng nghiến rứt con dâu, con dâu cãi lại mẹ chồng. Cô em nói mỉa mai. Chỉ vì người nào cũng khổ cả, và người nọ cứ tưởng vì người kia mà khổ ". Thứ trong Sống mòn cũng luôn luôn đặt ra câu hỏi về ý nghĩa sống: "Nhưng thật ra thì ăn no đã đủ đâu? Nếu sống mà không thấy sống là vui, thì thật không đáng sống. Chao ôi! Cuộc sống như cuộc sống của chúng ta đang sống bây giờ đã thật có gì đáng cho ta thấy vui chưa? Người ta ghét nhau hoặc yêu nhau, nhưng bao giờ cũng làm khổ nhau cả. Tại sao như vậy?".

Câu hỏi không được trả lời, nhưng người đọc, người xem thì hẳn ai cũng hiểu. Đó là một cuộc sống quá ươn hèn và thấp kém về tinh thần, không có gì cao hơn bản thân một chút; không mang lại được một chút giá trị gì về tâm hồn và trí tuệ cho người khác - vốn thường phải là mối quan tâm của người trí thức.

Nói cho thật đúng thì với Sêkhôv - những con người biết sống vì một mục đích cao hơn bản thân, mong đem lại một ý nghĩa tích cực đối với đời, cũng có, dẫu còn hiếm. Đó là bác sĩ Đưmốp trong Người đàn bà phù phiếm, tận tụy trong việc cứu người, và cuối cùng phải chết vì căn bệnh của người đã được cứu sống. Nhưng điều đáng thương tâm hơn là ông đã không nhận được bất cứ sự chăm nom nào của vợ, một "người đàn bà phù phiếm"; và ông cam chịu sự lạnh lẽo đó, không một lời chê trách. Bác sĩ Raghin trong Phòng số 6 cũng là một người lương thiện, nhưng vì sự nhu nhược, thỏa hiệp với cái ác, nên đã bị đẩy vào nhà thương điên.

Vậy là những ai muốn có một cuộc sống có ý nghĩa, muốn sống cho ra con người thì phải tìm đến một khẩu súng, hoặc phải đi khám bệnh, hoặc vào nhà thương điên... Còn số lớn đều phải chấp nhận tình trạng tù đọng, và với tâm lý thụ động, không mong và không tin hoàn cảnh có thể thay đổi. Bởi chính họ là hiện thân của sự từ đọng đó.

Sêkhov, người nhìn thấu tận đáy chiều sâu bi kịch đó, đã từng được Gorki hình dung như sau: Đó là "một con người lớn lao, thông minh, biết quan tâm đến mọi sự, đi qua bên cạnh cái đám tẻ nhạt, tối tăm của những con người bất lực kia. Người ấy nhìn đồng bào chán ngắt của mình và với một nụ cười buồn buồn, với một giọng trách móc nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, với một nỗi u hoài vô hy vọng trên gương mặt và trong tâm can, cất tiếng nói chân thành và đẹp đẽ:

- "Các ngài sống tồi lắm, các ngài ạ! "

Chính Sêkhov cũng có lần nói: "Tôi chỉ muỗn nói thật, nói thẳng với mọi người rằng: Hãy nhìn lại mình, hãy nhìn xem chúng ta đang sống tồi, sống tẻ như thế nào?".

Nửa thế kỷ trước Sêkhov, Puskin sau khi đọc Những linh hồn chết của Gôgôn đã phải kêu lên: "Trời ơi! Nước Nga của chúng ta sầu thảm xiết bao!"

Nhận rõ mọi tội trạng và thảm họa của nền chuyên chế Sa hoàng đối với mọi tầng lớp người; cái nhìn phê phán và sự thất vọng đối với giới trí thức - đó là chủ đề nổi đậm trong văn học Nga. Một nền văn học đã là biểu trưng cho những giá trị dân chủ và nhân văn vô cùng quý giá chống lại sự ngược đãi con người, chống lại sự trì đọng của trí tuệ, chống lại sự bạc nhược của giới trí thức; và bao trùm là một khát vọng tự do "thoát ra khỏi cái hơi ngạt độc đoán chuyên chế, nó làm nghẹn ngào và nghẹt thở bao tâm hồn con người, kể cả người xấu lẫn người tốt"(1`), một khát vọng tự do, cao hơn tất cả mọi sự kềm kẹp, trói buộc, đè nén, áp bức, dẫu là đến từ bất cứ đâu - là nước Nga Sa hoàng; là nền thống trị của chủ nghĩa tư bản trên toàn Châu Âu, rồi chủ nghĩa đế quốc trên toàn thế giới; là bất cứ thể chế chính trị xã hội nào muốn biến con người thành nô lệ, muốn nhận chìm con người vào đáy sâu thói nô lệ.

Một nền văn học Nga được viết bởi những tên tuổi cực kỳ sáng giá nhằm vào sự giải phóng con người ra khỏi mọi trạng thái nô lệ. Được viết bởi những người thật sự đã xả thân cho sự nghiệp đó, không chỉ bằng cây bút, mà bằng cả sinh mệnh của mình. Không một ai trong những tên tuổi lớn của văn học Nga - cho đến Sêkhov là thỏa hiệp với chế độ Sa hoàng; và tất cả đều chấp nhận những rủi ro bất hạnh cho mình, đến từ thể chế đó - người thì bị đẩy vào những cuộc đấu súng, người bị điên, người tự tử, người bị lưu đày, người vào hầm cầm cố...

Khát vọng tự do, khát vọng giải phóng cho các năng lượng tinh thần qúi giá ở con người - đó là tiếng kêu của Sêkhov. Ở một quy mô nhỏ hẹp hơn - tiếng kêu của Nam Cao cũng không phải là không khẩn thiết:

"Chết là thường. Chết ngay trong lúc sống mới là nhục nhã"... "Cái đầu tóc mới nuôi có bao giờ thèm mong sau này làm một ông phán bình thường, mắt cận thị và lưng gù, tháng tháng lĩnh lương về nuôi vợ, nuôi con...".

"Nay mai mới thật buồn. Y sẽ chẳng có việc gì làm, y sẽ ăn bám vợ. Đời y sẽ mốc lên, sẽ rỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục ra ở một xó nhà quê. Người ta sẽ khinh y, chính y sẽ khinh y. Rồi y sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống".

"Đời họ là một đời tù đày. Nhưng cũng như một con trâu, họ vẫn cắm cúi kéo cày, ăn cỏ, chịu roi. Ở bên kia những cánh đồng bùn lầy, là rừng xanh, cuộc sống tự do, cỏ ngập sừng. Con trâu có lẽ cũng biết vậy, nhưng chẳng bao giờ nó dám đi, chẳng bao giờ nó dám dứt đứt sợi giây thừng. Cái gì giữ con trâu lại đồng bằng và ngăn người ta đến một cuộc đời rộng rãi hơn, đẹp đẽ hơn? Ấy là thói quen, lòng sợ hãi sự đổi thay, sợ hãi những cái gì chưa tới. Ấy thế mà trên đời này lại chẳng có cái gì tới hai lần. Sống tức là thay đổi".

P.L
(187/09-04)


----------------------------
(1) Nguyễn Tuân: Đọc Sêkhov; Truyện ngắn tuyển tập; NXB Hội Nhà văn; H; 1957


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.