Sao anh không về chơi thôn Vỹ...

15:05 24/07/2012

BỬU Ý

Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

Mộ nhà thơ Hàn Mạc Tử ở Quy Nhơn

Cùng nằm trên một trục lộ Jules Ferry ấy là các mốc điểm: nhà ga, trường Pel- lerin, trường Quốc Học, trường Đồng Khánh, Câu lạc bộ thể thao dưới nước, cơ sở nhà hàng khách sạn Morin, Tòa Khâm sứ Pháp, Đập Đá, Vỹ Dạ, biển Thuận An...

Từ trường Pellerin đi xuống qua Đập Đá là tới Vỹ Dạ, đoạn đường ấy chưa đến hai cây số, có thể thả bộ đi đi về về (cũng như nữ sinh Đồng Khánh nếu nhà ở Vỹ Dạ, có thể đi bộ ngược lên trường mình hàng ngày và suốt năm).

Như vậy cậu Trí, học trường Pellerin hai năm ấy, chắc hẳn cũng có vài lần xuôi về Vỹ Dạ ngắm nhìn phong cảnh, dù bản thân chưa đầy hai mươi tuổi, bởi Vỹ Dạ thời buổi ấy hãy còn hoang sơ nhưng nổi tiếng là một nơi dừng chân mát mẻ, đẹp đẽ.

Cậu chưa biết để mắt đến ai, nhưng khung cảnh Vỹ Dạ đã như in vào lòng cậu học trò xa nhà và nhạy cảm.

Học xong ở Huế, về lại Quy Nhơn, Nguyễn Trọng Trí gặp Hoàng Thị Kim Cúc. Rồi, vì gia đình di chuyển, vì công việc, chàng thanh niên vào Sài Gòn, còn Hoàng về Huế.

Hàn MặcTử nhớ Huế, nhớ một người ở Huế, da diết ngóng tin, ngày ngày chờ chực văng vẳng đâu đây:

Sao anh không về chơi thôn Vỹ...

Đây là câu mở đầu cho bài thơ “Ở đây thôn Vỹ Dạ”.

Câu mở đầu thật nhẹ nhàng. Một lời nói tự nhiên thốt lên. Nó nhẹ nhàng tự nhiên đến nỗi, dù có dáng vẻ là câu hỏi, nó chẳng cần đến dấu chấm hỏi ở cuối câu.

Và đã không cần dấu hỏi ở cuối câu thì chữ “sao” ở đầu câu cũng nhạt mất ý nghĩa của “tại sao”, “vì sao” thường bắt gặp.

Quả tình đây không phải là câu hỏi, và nó cũng chẳng cần đến câu trả lời.

Nói ra để nói ra, chứ không phải để hỏi. Cho nên câu nói ra ấy là một lời ướm thử, một lời mời gọi, tương đương với: “Hay là anh về chơi thôn Vỹ”, “Anh thử về chơi thôn Vỹ”, “Anh về chơi thôn Vỹ một chuyến xem sao”.(1)

- Sao anh không về chơi thôn Vỹ…

Câu đầu tiên ấy đã chứa đựng ngay cái chủ quan khẳng định của nhà thơ: thôn Vỹ là địa điểm xứng đáng cho khách sành điệu đến chơi và hiểu ngầm: chứ đâu phải chờ đợi tôi lên tiếng mời mọc?

Nhưng cái chủ quan ấy, ở đây, không gây chõi, không gây chống nơi cảm quan của người đón nhận câu thơ, bởi lẽ cái chủ quan ấy chẳng qua đã từng bắt gặp sự đồng tình nơi nhiều người khác và đã hun đúc trở thành một kinh nghiệm, một xác tín.

Ướm một lời mời như trên đây bao hàm ý nghĩa người mời đã từng nếm trải cảnh đời ấy và nay đem ra giới thiệu.

Tuy là lời mời, nhưng nó chứa chất một sự khẳng quyết bao trùm lời mời, cho nên nó dễ dàng thuyết phục như chuỗi luận lý của tam đoạn luận.

Sao anh không về chơi thôn Vỹ… Đây là một vế trong chuỗi tam đoạn luận lẻ vế:

Người sành điệu thì tìm đến nơi hữu tình

Anh là người sành điệu (hiểu ngầm)

Vậy anh phải đến nơi hữu tình (hiểu ngầm: thôn Vỹ)

hoặc là:

Huế có thôn Vỹ (nổi tiếng)

Anh về Huế

Anh phải về thôn Vỹ

Tác giả mở lời mời anh: “anh” tức là bạn, một người nào đó. Nhưng tất nhiên không phải bất cứ ai. Bởi lẽ giữa đời vẫn có những người không để mắt đến thiên nhiên vì tính tình, vì công việc… Nhưng “anh” ở đây cũng không bó hẹp vào một loại, một lớp người nào, mà chỉ một số người tương đối rộng, giống như thể ta ngầm bảo: miễn anh là người có tấm lòng, miễn anh có đôi mắt, miễn anh có đôi chân…

Lời mời mọc ấy cũng chỉ là dóng lên cho ai đó muốn nghe.

Và lời mời phát ra cũng tỏ lộ tấm lòng đang rộng mở, phơi phới, yêu đời của người cất tiếng.

Người mời rõ ràng đang nhìn đời bằng màu hồng, đang dạt dào yêu đời, hay là, nói tắt một tiếng, đang yêu.

Sao anh không về chơi thôn Vỹ…

Đại từ anh trong câu mở này, tuy nghe nhẹ nhàng êm ái, tuy nghe dễ dàng như không, vẫn có vị trí không thể nào thay thế bằng một đại từ nào khác.

Nếu giả sử, thay thế nó bằng “em” thì tác giả tự loại mình ra khỏi cuộc chơi, hoặc giả thử, thay thế nó bằng “ta” thì chữ “ta” này gây thiệt thòi lớn cho nhà thơ vì nó chỉ được việc cho độc thoại và không thiết lập đối thoại là điều mong ước của Hàn.

Chữ anh được dùng ở đây có thể có nhiều nghĩa mà nghĩa nào cũng tương thích: hoặc “anh” một cách phiếm chỉ cũng được, và lúc bấy giờ có thể ngỏ với bất cứ ai mà mình sẽ chuyển hóa thành người đồng điệu, thành kẻ tri âm để cùng gặp gỡ trong cảnh đẹp, cận bóng yêu kiều. Hoặc, nghĩa thứ hai, mình tự nói với mình, tự nhắn, tự lặp lại để thúc đẩy hành động. Hoặc nữa, nghĩa thứ ba, là câu như của người trong cuộc, như của người yêu gửi gắm cho mình, hoặc do mình tưởng tượng đọc ra từ tấm bưu ảnh mà Hoàng đã gửi tặng Hàn. Nếu hiểu theo cách thứ ba thì đây là một lối “ăn gian” tình cảm xét ra cũng vô tội của nhà thơ.

Nhưng đây không phải là một lời mời trịnh trọng, không phải mời về thăm viếng một cách lớn lao, khệ nệ, không phải mời về chiêm bái một hình tượng nào, thậm chí không phải mời về thưởng thúc một món ngon vật lạ thổ sản của Vỹ Dạ. Không, không phải mời về vì bấy nhiêu thứ ấy, mà là:... về chơi...

Một cuộc “về chơi” không mục đích, không hành lý mang theo, không ý tưởng tâm tình “giắt sẵn”. Về một cách không có gì mang theo và tâm hồn cùng trí não mở rộng sẵn sàng đón nhận.

... về chơi...

Có một số động từ (rất giống giới từ) bao hàm ý nghĩa định hướng sự xê dịch của bước chân hoặc của phương tiện xê dịch: về, lên, xuống, ra, vào, qua, lại, tới...

Có khi do địa hình, có khi do kiến trúc đô thị, những từ ấy thay đổi linh động.

Cũng có khi do vị trí đất đứng của người nói, hoặc người nghe. (2)

“... về chơi...”: “về” dùng trong trường hợp trên - dưới (đồi Thiên An về biển Thuận An), xa - gần (tôi sẽ về thăm bạn), không gian lớn - nhỏ (các bạn đi phố rồi về nhà tôi một lát), phố - làng (từ Huế về Vỹ Dạ).

Kể từ 1930, Hàn giã từ Huế vào làm việc ở Quy Nhơn. Và tại đây, Hàn biết có thiếu nữ Hoàng Thị Kim Cúc ở cùng đường Khải Định với mình. Hàn gặp Hoàng hai lần nhưng không trò chuyện gì được.

Đến năm 1936, Hàn về Huế, gặp Hoàng tại Hội chợ Huế. Hàn đánh bạo về thăm Hoàng tại Vỹ Dạ nhưng không gặp.

Suốt một đời cút bắt với người trong mộng, Hàn đoạn trường mong ngóng mỗi một câu:

Sao anh không về chơi thôn Vỹ…

Câu bình thường ấy, lời mời gọi bình thường ấy, suốt đời không đến với Hàn.

Mà, vạn nhất nó có đến, thì đã chậm mất rồi! Hàn sẽ không thể quay về Huế được nữa, Hàn đã bệnh nặng và ngày cuối đời sẽ không còn bao xa.

Sao anh không về chơi thôn Vỹ…

Thôn Vỹ?

Thôn Vỹ không là gì cả. Ấy vậy mà nó đã từng có một thời làm xao xuyến con tim của bao tao nhân mặc khách trên con đường sưu tập cái đẹp của cảnh vật, cái đẹp của tâm hồn trên đất nước mình. Đơn cử trường hợp này đây với những vần thơ, hình ảnh, những lời nhắn gửi, con người ẩn hiện, những tình cảm phiêu phất nhưng mặn mà, tạo thành một câu chuyện, một bài thơ, một giai thoại đẹp như truyện cổ tích.

B.Y   
(SH281/7-12)



-----------------
(1) Sao anh không về chơi thôn Vỹ…: chữ “sao” ở đây, ta cũng có bắt gặp trong những trường hợp tương tự:
- “Họ bảo nhau: Nó lần đầu tiên đến Huế, -+chẳng thông thuộc đường sá. Sao ta không lên ga đón nó nhỉ!”
- “Còn sớm chán. Sao ta không vào quán bên đường ăn lót dạ rồi đi tiếp.”
- “Hội chợ mới khai trương. Sao mình không đánh một vòng bên trong xem có gì lạ không.”
- “Khoan ăn món ấy đã, sao ta không bắt đầu bằng món này kẻo nguội.”
Trong những câu nói như trên đây, chữ “sao” nhạt hẳn tính nghi vấn mà nghiêng nặng về tính mời mọc.

(2) Thí dụ câu: “Chiều một mình qua phố....” (Trịnh Công Sơn).
... qua... khiến người ngầm hiểu rằng có hai bên (bên này và bên kia). Ở đây là bờ Nam và bờ Bắc, hay là như người ta thường nói hiện nay: Nam sông Hương và Bắc sông Hương. Giống như thể trước đây, trước 1975, người ta gọi tả ngạn và hữu ngạn. Như vậy, người bên này “qua” bên kia hoặc ngược lại. Và thông thường ở giữa hai bên là một cây cầu.
“Vào” và “ra” chỉ định di chuyển từ tỉnh này sang tỉnh nọ: “vào” chỉ di chuyển theo hướng Bắc - Nam và “ra” theo hướng ngược lại là Nam - Bắc. (Trong khi tiếng Pháp dùng chữ “xuống” và “lên” theo vị trí của tỉnh thành ấy trong bản đồ).


 





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN KHẮC VIỆN
                    Trích hồi ký

    - 75 rồi đấy, ông ơi! Viết hồi ký đi. Chuối chín cây rụng lúc nào không biết đấy!

  • Chiều 15-4-89, 14 giờ. Phòng họp của Hội VHNT Bình Trị Thiên đã chật hết chỗ, nhiều người ngồi lên bậc cửa sổ.

  • HỒ VĨNH

    Nhà báo Nguyễn Cửu Thạnh sinh ngày 15/6/1905 tại Phú Hội, thành phố Huế. Thuở thiếu thời ông là người ngay thẳng, vui tính, thích văn chương nghệ thuật; ông bước vào nghề báo từ năm 1929 và tham gia hoạt động tích cực trong phong trào Mặt trận Dân chủ tại Huế và hoạt động báo chí do Xứ ủy Trung kỳ chỉ đạo.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Trong lịch sử xây dựng tổ chức văn nghệ trên đất Cố đô Huế 70 năm qua, nơi ghi dấu nhiều sự kiện, nhiều kỷ niệm nhất hẳn là ngôi nhà 26 Lê Lợi, bên bờ nam sông Hương.

  • Đó là đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong điếu văn linh mục Phạm Bá Trực.

  • Từ Thượng thư Bộ Hình triều Nguyễn, cụ Bùi Bằng Đoàn đã vượt qua những định kiến của thời cuộc, của chế độ cũ - mới để tham gia chính quyền cách mạng.

  • HOÀNG VŨ THUẬT
                    Bút ký

    Hồi ấy tôi cũng là ông giáo làng, sáng đi tối về. Chiến tranh như cái máy ủi đã san phẳng bất cứ thứ gì dựng lên trên mặt đất.

  • Văn Cao là một trong những nhạc sĩ thuộc lớp tiền bối của nền tân nhạc Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của ông luôn gắn chặt và hoà trộn với dòng chảy lịch sử của dân tộc. Nhiều tác phẩm của ông đã trở thành di sản âm nhạc quý báu của nước nhà. Trong đó, có tác phẩm Tiến quân ca - Quốc ca Việt Nam – mà ông là tác giả.

  • PHAN QUANG
                Hồi ký

    Vua Hàm Nghi ghé làng tôi. Vua nghỉ lại ở nhà tôi. Điều đó xảy ra một trăm năm về trước. Và nhà ấy là nhà của ông nội tôi.

  • Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ngân Giang viết như một dòng sông tuôn chảy điều hòa. Bà là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: người làm thơ liên tục dài năm nhất (từ 1922 tới khi bà qua đời- 2002), có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất (hơn 5.000 bài) có nhiều bài được truyền tụng (như Trưng nữ vương, Xuân chiến địa...)

  • KỶ NIỆM 68 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ (27/7/1949 - 2015)

    PHẠM HỮU THU 

    Trước khi ông Lê Sáu, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế qua đời, tôi may mắn được ông kể cho nghe nhiều chuyện, phần lớn là những ân tình mà đồng bào, đồng chí đã dành cho cách mạng trong những năm ác liệt của chiến tranh, nhất là những tấm gương lặng lẽ hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.

  • PHAN NAM SINH

    Thầy tôi mất trưa hôm 16/1/1959 tại số nhà 73 phố Thuốc Bắc - Hà Nội. Sau khi cùng các anh chị tôi lo xong đám tang cho ông, mẹ tôi thu dọn tất cả số sách báo, sổ tay ghi chép, di cảo... của ông để lại vào trong hai chiếc va li loại lớn được ông mang về từ lần đi Trung Quốc dự lễ tưởng niệm 20 năm ngày mất của Lỗ Tấn.

  • Nhiều người Huế ngày trước thuờng ngâm nga câu hát: “ Cô gái nữ sinh Đồng Khánh kia ơi/ Cô đi về đâu tan buổi học rồi?/ Cô xuôi Đập Đá hay về Nam Giao/ Cô về Bến Ngự hay về Đông Ba / Cô về Vĩ Dạ hay ngược Kim Luông/… Tôi mơ một bóng khi về đơn côi/ Áo dài dáng đẹp tóc còn buông lơi/ Ghi một kỷ niệm cuộc đời trong tôi”.

  • BÙI KIM CHI 

    Vào Thành nội, hai con đường nhỏ hai bên hông trường trung học Hàm Nghi có lá phượng bay, có vòm nhãn che đường làm nền cho ngôi trường uy nghi, bề thế nằm ở giữa. Trước cổng trường có con đường nhỏ chạy ngang qua với hai hàng mù u lấp lánh nắng vàng tươi chụm đầu vào nhau nghe và thủ thỉ chuyện học trò.

  • THÁI KIM LAN

    Từ xa nhận được hung tin Thầy nhập viện trong tình trạng nguy cập, tôi nôn nóng muốn về, hi vọng được gặp lại Thầy.

  • HƯỚNG ĐẾN KỶ NIỆM 70 NĂM HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ

    LÊ TRỌNG SÂM

  • 90 NĂM BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM(21/6/1925 - 2015)

    THANH NGỌC

    Sự hình thành và phát triển của Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT) Thừa Thiên Huế kể từ khi ra đời đến nay đã gắn bó rất chặt với đời sống báo chí. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi những mầm xanh của VHNT rất cần được gieo trồng trên cánh đồng báo chí. Điều khác nữa, Huế - vùng đất từng là “thủ đô văn hóa” của cả nước, nơi báo chí phát triển cực thịnh mấy chục năm từ trước 1945 đến 1975, các nhà văn hoạt động mạnh mẽ trên lĩnh vực báo chí là lẽ đương nhiên.

  • TRANG ĐOAN

    “Một tiếng lôi đình kinh vũ trụ
    Tấm gương trung nghĩa động thần minh.”[1]

     

  • Nhân kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tối 19/5 kênh VTV1 đã trình chiếu bộ phim tài liệu: Hồ Chí Minh - Bài ca Tự do. Có thể khẳng định: đây là một trong những bộ phim tài liệu đặc sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh mà tôi đã từng được xem.

  • NSND Trà Giang chia sẻ ký ức và cảm xúc về bức ảnh được chụp cùng Bác Hồ năm 1962.