Sáng tác ở phố biển Vũng Tàu

08:56 04/09/2008
TRẦN HUY THANHTừ ngày 1 đến 15/7/2002, được sự giúp đỡ của Bộ Văn hoá Thông tin, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế đã cử đoàn văn nghệ sĩ đi dự trại sáng tác văn học nghệ thuật tại Nhà sáng tác Vũng Tàu.

Chiều 25/6/2002, Ban Thường vụ Hội đã tổ chức cuộc gặp gỡ các trại viên trước khi lên đường. Nhà thơ Võ Quê, hoạ sĩ Đặng Mậu Tựu, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã đến dự buổi chia tay với đoàn và trao đổi mục đích, ý nghĩa, kế hoạch của đợt đi sáng tác. Anh Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hội Văn nghệ dân gian) được cử làm trưởng đoàn, Huỳnh Mẫn (Hội Nhiếp ảnh) làm phó đoàn. Văn phòng Hội dự kiến thuê xe đưa đoàn từ Huế đến Vũng Tàu nhưng nhạc sĩ Trần Hữu Pháp không muốn đi xe. Anh đưa bàn tay vỗ vỗ lên trán nói:"Tôi đi xe hay bị chóng mặt, xin đi xe lửa thôi". Nhạc sĩ Minh Phương ngồi cạnh đứng dậy ủng hộ: "Tôi cũng xin đi xe lửa để bảo vệ cho... anh Pháp". Kế hoạch đi xe không thành. Sáng hôm sau, Võ Văn Yến (Văn phòng Hội) liên hệ ga Huế để mua vé. Đoàn chia làm hai nhóm, nhóm 1 gồm có Minh Phương, Ngọc Tranh (Sân khấu), Trần Hữu Pháp, Mai Xuân Hoà (Âm nhạc), Huỳnh Mẫn, Võ Đông Bảy (Nhiếp ảnh) và Võ Quê (Chủ tịch Hội) đi tàu S1 khởi hành lúc 7 giờ sáng 29/6, vào đến thành phố Hồ Chí Minh tảng sáng 30/6, tiếp nhận thêm trại viên mới là hoạ sĩ - nhà văn Trần Quốc Tiến (Tấn Hoài) rồi về Vũng Tàu buổi sáng cùng ngày. Nhóm 2 đi tàu S9 khởi hành lúc 12 giờ 5 phút ngày 29/6 gồm có Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Huy Thanh (Văn nghệ dân gian), Phạm Tấn Hầu, Nguyễn Văn Vinh, Đỗ Văn Khoái (Văn học), Nguyễn Hùng, Phạm Quang Trinh (Mỹ thuật) và Võ Văn Yến, đến thành phố Hồ Chí Minh trưa ngày 30/6. Chị Phương Lan (từng công tác ở văn phòng Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế từ 1980 - 1989) cùng anh Trương Công Minh ra ga đón từ 10 giờ 30 và chuẩn bị xe đưa đoàn đến Vũng Tàu lúc 16 giờ 20 kịp xem truyền hình trực tiếp trận thi đấu vòng chung kết World Cup 2002 giữa hai đội Đức và Braxin. Điều bất ngờ là chưa đầy một tuần sau đó, Phương Lan đã trở thành trại viên không chính thức, một bóng hồng xinh đẹp duy nhất của cả đoàn Thừa Thiên Huế. Chị đến với trại bằng tất cả tình cảm, tấm lòng và cả sự giúp đỡ thiết thực, cùng tham gia sinh hoạt và vẽ tranh rất tích cực, là người thuộc rất nhiều bài thơ hay của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Lâm Thị Mỹ Dạ.
Lễ khai mạc trại tổ chức vào chiều 2/7/2002 trong bầu không khí thân mật, ấm cúng, tươi vui, được Đài Phát thanh Truyền hình và báo Bà Rịa - Vũng Tàu ngày 3 và 4/7 đưa tin. Tuy nhiên công việc sáng tác không đợi đến lễ khai mạc mới bắt đầu mà trước đó trên chuyến tàu tốc hành S9. Đỗ Văn Khoái đã say sưa tìm đến nàng thơ với bài "Ngày ra đi", bài thơ ra đời sớm nhất của trại (xin trích mấy câu):
Ra đi trên chuyến tàu của gió
Vẫn mang theo nguyên vẹn ánh mắt nhìn.
Cuộc chia tay không thể nào khác được
Sao nỗi buồn cứ chật chội trong tim
.
Sáng 1/7, Trần Quốc Tiến, Trần Hữu Pháp, Mai Xuân Hoà, Minh Phương, Ngọc Tranh, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Văn Vinh, Trần Huy Thanh đã ngồi vào bàn khai bút. Hai họa sĩ Nguyễn Hùng và Phạm Quang Trinh phác thảo những đường nét ban đầu cho tác phẩm Thời gianĐược mùa. Huỳnh Mẫn và Võ Đông Bảy đi từ Bãi sau ra Bãi trước, núi nhỏ lên núi lớn để săn tìm những khoảnh khắc bấm máy ưng ý nhất.
Sau lễ khai mạc, không khí sáng tác trở nên sôi nổi hơn và ai nấy đều muốn chạy đua với thời gian eo hẹp để kịp hoàn thành tác phẩm. Không ít người sau khi hoàn tất bản thảo theo đề cương đã đăng ký còn viết thêm đề tài mới: Ngày 10/7 viết xong vở kịch nói 10 cảnh "Bác sĩ và cô gái điên", nhà soạn kịch Ngọc Tranh gửi ra Hà Nội theo lời đề nghị của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam và anh bắt tay viết tiếp vở kịch mới: "Cô gái giữa đạn bom". Trần Quốc Tiến vừa viết truyện dài "Đổi đời" vừa làm thơ và vẽ hàng chục bức ký họa chân dung. Minh Phương không chỉ có vở kịch nói "Tiếng chim mùa đông" mà con viết ca cảnh tặng Nhà Thiếu nhi Vũng Tàu, 2 ca khúc "Bâng Khuâng Vũng Tàu" và Mùa biển. Anh và nhạc sĩ Mai Xuân Hoà chăm chút cho tác phẩm của mình rất cẩn thận, nhờ hoạ sĩ Trần Quốc Tiến và Nguyễn Hùng giúp trang trí và vẽ tranh minh hoạ. Nguyễn Văn Vinh ngay sau khi kết thúc hai truyện ngắn "Kỷ vật thiêng liêng" và "Hai ngôi sao" anh tranh thủ viết thêm bài ký "Tản mạn một chuyến đi" và phần đầu thiên tiểu thuyết "Long đong phận người". Phạm Tấn Hầu ngoài 5 bài thơ tâm đắc còn soạn xong đề cương tập thơ tình "Mấy thuở". Khung cảnh thiên nhiên trữ tình, quyến rũ, huyền ảo và nên thơ của khu vực Thùy Vân là nguồn cảm hứng quan trọng tạo nên 7 bài thơ, 4 ca khúc, 14 bức tranh, 21 ảnh nghệ thuật, 1 ca cảnh và 1 ký ngợi ca mảnh đất và con người Bà Rịa Vũng Tàu đang từng ngày đổi mới đi lên trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhạc sĩ Trần Hữu Pháp bị vẻ đẹp về đêm của Thùy Vân chinh phục liền đặt tên cho ca khúc của mình là "Đêm Thùy Vân". Anh còn có bài hát "Đêm giàn khoan nhớ Huế" phổ từ thơ của Nguyễn Xuân Sang (Vũng Tàu). Sáng tác ở phố biển nên không lạ gì trong các tác phẩm của đoàn có rất nhiều từ biển: nào là biển sáng, biển lặng, biển xanh, biển ru, bọt biển, trời biển.v.v... Sau biển là từ sóng: sóng ngủ, sóng vỗ, sóng tung tăng... tiếp đến là các từ gió, bão, cát và bơ. Cũng xin nói thêm về vị trưởng đoàn, 52 tuổi, trùng họ và tên với cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585). Sau khi xuất bản hai tác phẩm "Sáng tác lời ca Huế và dân ca" (1981) và "Huế - một bài thơ" (1997), Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nỗi ám ảnh sợ rằng sáng tác mới sẽ "không vượt lên được chính mình" nên suốt thời gian trại anh dành hết tâm trí hoàn thành tác phẩm thứ 3 "Hát cùng đất nước"gồm 19 bài ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên.
Ngày ngày cặm cụi, suy tư bên trang viết hay giá vẽ, những lúc đi tham quan, dạo chơi, tắm biển, gặp gỡ chuyện trò trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp và sinh hoạt chung là những giây phút thư giãn và để lại nhiều kỷ niệm khó quên. Những buổi đọc thơ, đấu thơ, sáng tác thơ tập thể về một đề tài nào đó bất chợt xuất hiện hay kể chuyện giai thoại được tổ chức tự phát ở quán cà phê bên góc phố, trên bãi biển hoặc trên căng tin đã đem đến cho các trại viên những tiếng cười rộn ràng tươi vui, lạc quan, yêu đời. Ấn tượng sâu sắc và rôm rả hơn cả là lễ bế mạc trại vào chiều tối 15/7 với một chương trình phong phú thơ ca nhạc hoạ của các trại viên, của nhà thơ Xuân Sách, Lưu Trọng Phúc, giọng ngâm của Thanh Xuân (Vũng Tàu) và tiếng ca ngọt ngào sâu lặng của Kim Minh (Thành phố Hồ Chí Minh). Tấm ảnh nghệ thuật Bình minh trên biển Vũng Tàu (40x50) do Huỳnh Mẫn và Võ Đông Bảy thực hiện là món quà lưu niệm của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã được trưởng đoàn Nguyễn Bỉnh Khiêm trao tặng cho Nhà sáng tác.
Từ biệt Vũng Tàu, mọi người cứ thấy tiếc ngẩn ngơ, chẳng ai muốn rời xa thành phố biển du lịch mộng mơ, hoa lệ và hiền hoà. Phạm Tấn Hầu đã bộc bạch nỗi niềm lưu luyến ấy qua bài thơ "Chào Vũng Tàu":
...Ta chào những con còng bé nhỏ
Lẩn trốn vào hang động tuổi thơ ta.
Bao lâu đài xây từ mơ ước
Bỗng hiện lên làm cổ tích cho người.
T.H.T
(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN XÊ
                      hồi ký

    Buổi sáng mùa thu ngày 20-9-1940. Nơi nhà thương Nam ở Quy Hòa những bệnh nhân già yếu đang run lên vì gió lạnh từ biển thổi vào.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Tôi đang chuẩn bị cho những trang cuối của số tạp chí này thì được tin từ thành phố Hồ Chí Minh điện ra: Bác Nguyễn Tuân đã mất! Sững sờ và xúc động quá! Tôi như không muốn tin.

  • PHAN NGỌC MINH 

    Từ lâu, tôi mong ước có một chuyến đi xem và vẽ Kinh Thành Huế. Ý tưởng ấy đã thực hiện vào Thu 1995. Lần ấy, được trên mười bức ký họa, những cơn mưa cứ kéo dài, cuối cùng, tôi đành rời Huế trong tâm trạng đầy lưu luyến.

  • TẠ QUANG SUM

    Lần lửa hơn 30 năm tôi mới về lại thăm Thầy. Ngôi nhà số 51 Hồng Bàng vẫn “ Trầm mặc cây rừng ” như ngày xưa lũ học trò chúng tôi có dịp ngang qua. Cầu thang dẫn lên căn gác nhỏ yếu ớt rung lên dưới chân mình, hay….mình run! Tôi chẳng thể nào phân định được, trong phút giây bồi hồi xao xuyến ấy.

  • NGUYỄN THỊ THỐNG

    Tôi tên là Nguyễn Thị Thống - con gái của cố họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung. Tôi rất vui mừng, xúc động và thấy rất may mắn được tới dự buổi lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của bố tôi tại thành phố Huế vừa qua do Liên hiệp các Hội VHNT Thừa Thiên Huế tổ chức. Tới dự buổi lễ này, tôi được nghe và nhớ lại những kỷ niệm về bố tôi. Những kỷ niệm không bao giờ phai mờ trong ký ức.

  • NAM NGUYÊN

    Thực ra, tôi gọi cuộc đi này là hành hương. Hành hương, nghe có vẻ cao siêu nhưng y phục xứng kỳ đức mà thôi.

  • (Lược thuật Hội thảo “Giá trị văn học Thừa Thiên Huế - những định hướng bảo tồn)

  • TRẦN THỊ KIÊN TRINH Đã không ít lần tôi được nghe những câu chuyện của các anh kể về một thời trai trẻ. Tuổi trẻ hiến dâng, tuổi trẻ xuống đường, tuổi trẻ lên rừng kháng chiến và những đêm không ngủ.

  • THANH HẢI SHO - Hôm ấy, Nha Trang đỏ nắng. Tôi cùng anh bạn nhà báo lần đến số 46 đường Yersin tìm một ông già. Đến nơi, vừa kéo chuông chủ nhà vội vàng mở cổng. Trước mắt tôi là một ông già ngoài 80, dáng người đậm, da trắng,  mang cặp kính cận bự chác mỗi bên độ nửa bàn tay… ông già ấy chính là nhà thơ Giang Nam, tác giả bài thơ “Quê hương” nổi tiếng.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ Giữa năm 1967, anh Thanh Hải và tôi được điều động từ Thành ủy Huế về Ban Tuyên huấn Khu ủy Trị - Thiên - Huế. Mấy ngày đi đường, chúng tôi nói nhiều về vùng đất và con người quê hương.

  • MAI VĂN HOANThời còn là sinh viên khoa Văn trường Đại học Sư phạm Vinh (1967 - 1971), chúng tôi thường gọi thầy Hoàng Ngọc Hiến là thầy Hiến. Đó là cách gọi thân mật của những học sinh vùng quê miền Trung đối với những thầy giáo trường làng. Lên đại học chúng tôi vẫn giữ nguyên thói quen ấy.

  • NGUYỄN QUANG HÀNhững ngày trên chiến khu, báo Cờ giải phóng và báo Cứu lấy quê hương ở chung trong một mái nhà, cùng ăn cùng ở cùng làm.

  • PHẠM THƯỜNG KHANH - PHẠM LINH THÀNHTheo tiếng Latinh, thuật ngữ intelligentia - trí thức chỉ những người có hiểu biết, có tri thức, tầng lớp xã hội này bao gồm những người chuyên lao động trí óc, có trình độ chuyên môn cao.

  • NGUYỄN THANH TUẤN           Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

  • NGÔ MINH Sau ba tháng kêu gọi, hơn 250 văn nghệ sĩ, trí thức và những người Việt mến mộ Phùng Quán ở Việt Nam, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Ba Lan, Úc, Thụy Sĩ v.v, đã nhiệt tình góp cát đá xây lăng mộ nhà thơ Phùng Quán - bà Vũ Bội Trâm ở Thủy Dương, Huế.

  • HỒ THẾ HÀHằng năm, sự kiện hân hoan và sôi động nhất của văn nghệ sĩ Huế là kết quả thẩm định và xét tặng thưởng công trình, tác phẩm VHNT xuất sắc của Liên hiệp Hội.

  • Ngày 11 tháng 10 năm 2010, đoàn Trái tim người lính (Mỹ) do tiến sĩ, bác sĩ tâm lý, nhà văn Edward Tick dẫn đầu đã đến thăm và giao lưu với Hội Nhà văn Việt Nam tại Hà Nội. Đoàn của tổ chức Trái tim người lính có nhiều người là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam, I-Rắc; các bác sĩ, giáo viên, nhà báo, mục sư và cả học sinh trung học. Buổi gặp gỡ đã diễn ra trong tình cảm ấm áp, thông cảm, chia sẻ quá khứ, vì hiện tại và hướng tới tương lai. Chiến tranh và hòa bình được nhắc đến nhiều hơn cả trong các câu chuyện và thơ của cả bạn và ta. Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý là người được dự buổi gặp gỡ giao lưu cảm động này, anh đã có bài viết gửi Sông Hương, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. SH

  • LÊ TRỌNG SÂM(Kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế)Dưới sự chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên và có sự giúp đỡ nhiều mặt của Chi hội Văn nghệ Liên khu 4, cuộc gặp mặt lớn của giới văn nghệ sĩ trong tỉnh tại thôn 2 làng Mỹ Lợi trong vùng căn cứ khu 3 huyện Phú Lộc vào tháng 10 năm 1950 phải được tôn vinh như là Đại hội đầu tiên, Đại hội lần thứ nhất của anh chị em văn nghệ tỉnh nhà. Nó là một cái mốc quan trọng mở ra một thời kỳ mới.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế)Chiến dịch Mậu Thân 1968 đang cần quân để đánh vào thành phố, trước tình hình ấy, chúng tôi được huy động vào quân đội, và sau những tháng tập mang vác nặng, tập leo núi, tập bắn, tập tiến nhập, chúng tôi được điều vào Bác Đô (đó là bí danh Thừa Thiên Huế lúc bấy giờ).

  • VÕ MẠNH LẬPKỷ niệm 30 năm ngày mất nhà thơ Thanh Hải (1980 - 2010)