Rơi tình từ thuở u mê

15:15 05/12/2008
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)


Sau “Nằm nghiêng” của Phan Huyền Thư tập thơ đã gây xôn xao trên thi đàn trẻ, một sự xáo trộn không êm ả của cá tính mạnh trong con người chị. Tiếp đến “Rỗng ngực” thì tôi bắt đầu hình dung ra phong cách thơ chị – Người đàn bà đẹp lạnh lùng và đanh đá, tinh tế cùng xốc nổi. Thơ Phan Huyền Thư đột phá cách tân rất ngoạn mục làm người đọc đôi lúc cũng khó chịu. Nhưng vượt trên tất cả chị đã để lại ấn tượng cho người đọc bởi những câu thơ khá hay đầy chững chạc trong lối thể hiện tài hoa:
                        Bởi lỡ chạm tay vào gió
                        Nên bây giờ chạy trốn khắp nẻo yêu”
                                                                          
(Chạy trốn)
Và:
                        Anh rơi trong em
                        Rơi không chiều rơi huyễn hoặc
                        Nắng rơi chiều chợt nắng quái xưa”
                                                                           (Rơi tình)
Khi cả gan bước đến thánh địa của tình yêu:
                        Em chỉ giám giữ anh bằng ánh mắt van nài
                        Bàn tay do dự”
                                                                          (Liều)
Tôi thấy chị bay lơ lửng cùng đám mây chiều phiêu lãng tận cõi mê để tìm về một tình yêu đích thực giữa cơn mê lạc lầm của thể xác lẫn tâm hồn đang chế người đàn bà đa đoan. Có lúc Phan Huyền Thư dịu dàng tha thướt đến Huế, để cùng Huế chiêm ngưỡng sự lắng đọng êm ả của sông Hương. Hình như mưa là giai điệu hoá bè trầm trong lối tư duy bạo liệt đầy mụ mị của lớp lớp ngữ ngôn. Nỗi buồn rạo rực đang cùng chị thăng hoa:
                        Muốn thì thầm muốn vuốt ve Huế thật khẽ
                        Lại sợ chạm vào nơi nhạy cảm trên cơ thể Việt ”
                                                                                                  (Huế)
Chen chúc giữa nỗi bời ngợp đầy ắp thi hứng của Phan Huyền Thư là nỗi cô đơn tìm kiếm hơi thở nghệ thuật, chị đi ngang càn khôn ngẫm suy về được mất về cõi tục này. Lửa trong con người chị bùng lên thắp lên  bằng con chữ ngang tàng đôi chỗ kiêu căng bất cẩn như một kẻ điên cuồng thôi thúc trên chuyển hành trình mộng du. Chợt những âm thanh va đập cùng cơn cảm khái thi ca đang sôi sục tháng ngày đang vây bủa chị. Nếu sống khó như thế nào thì làm thơ cũng khó như vậy. Tôi đồng ý quan điểm với chị:
                        “Ngõ hẻm
                        Trăng rông
                        Mấy nàng xì ke chưa chồng vật thuốc
                        Khóc rưng rức
                        Tóc em sợi vàng, sợi nâu sợi bạc sợi tím sợi xanh
                        Ánh trăng nằm nhễ nhại sầu đong
                                                                            (Rỗng Ngực)
Cứ miên man đong đếm, cứ phờ phạc nhớ mong đợi chờ. Cái bóng hình xa xôi nào đó. Đôi lúc nghĩ lại Phan Huyền Thư thấy mình đôi khi là kẻ ngây thơ dại dột nhất thế gian này. Đọc thơ chị, bao kẻ đơm đặt nói chị rành rọt tinh đời và tỉnh táo. Âu cũng là lẽ thường tình nhưng đôi khi cũng có lúc ngẩn ngơ trong cái bản ngã bồng bột u mê sau nỗi tuyệt vọng chán chường bởi cái thứ hạnh phúc tội nợ ràng buộc hẹn thề đang mọc rêu trong Phan Huyền Thư để rồi thú nhận trước mình, trước tình yêu:
                        “Em xanh xao từ thuở
                        Không dạy bảo được tim”
                                                                 (Nghĩ Lại)
Tôi thích sự phá phách nổi loạn của Phan Huyền Thư đôi chỗ lại dịu dàng đến mức thái quá, nửa đớn đau lầm lỗi, nửa tha thứ bao dung đó là sợi dây trói buộc. Tạo nên chân dung Phan Huyền Thư thật rõ nét. Mới mẻ nhưng đầy sáng tạo, mặc những ý kiến khen chê trái chiều. Ta hãy thử đọc để hình dung sự phức điệu trong thơ chị.
                        “Ngượng ngập dìm chết em
                        Xác đức hạnh trôi sông
                        Đam mê
                        Tam đoạn luận”
                                                  (Do Dự)
Có lúc thức ngộ phát giác với những dự cảm mong manh:
                        “Từng nhát búa gò lại
                        Ý nghĩ tử tế về nhau
                                                   (Độ Lượng)

Phan Huyền Thư có lối đi riêng độc đáo cho mình, lao động thi ca trong thơ chị quả là nhọc mỏi vô cùng. Tôi vẫn đợi chờ tin tưởng hy vọng chị còn bứt phá đi xa trong cái đám đồng ca đầy cái Tôi hỗn độn hay tuyên ngôn huyễn hoặc mình. Để được thấy chị độc diễn cô đơn cùng “Hoa Gạo” mà nhạc sĩ Ngọc Đại phổ rất hay. Tôi đã rơi mê mệt trên giai điệu ấy. Bởi chị còn cất giấu những bí mật tâm hồn đang chờ hé lộ trước ban mai xanh xao:
                        “À ơi
                        Chỉ thế thôi
                        Mà gió
                        Tan tành cả ngụ ngôn”
                                                       (Khoảng trống)
B.Đ.V

(nguồn: TCSH số 208 - 06 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.

  • NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH

    Đọc truyện ngắn Hồng Nhu, tôi có cảm tưởng như mình đang lạc vào trong một thế giới huyền thoại, thế giới của những lễ hội, phong tục, tập quán xưa huyền bí mà có thật của người dân đầm phá Tam Giang.