Ký sự NGUYỄN ĐĂNG HỰU
Tam Giang rộng lắm ai ơi
Ai về ngoài Sịa nhắn người năm xưa
Ảnh: internet
Về Tam Giang giữa một ngày tháng 6, trước mắt tôi Tam Giang phô bày vẻ bình yên cổ tích toát lên từ xóm chài lúp xúp đầy tiếng cười con trẻ, từ những cụm đò nằm im trong dáng cổ xưa, lặng lẽ và an nhiên như thuở mới khai sinh hình hài. Ghé chợ Đầm trong cái vắng của trưa hè vùng cát, lác đác vài dáng người triêng gánh ra về sau buổi chợ tàn, chỉ còn lại mùi tanh phảng phất cái dư vị của một buổi sáng tấp nập cá tôm. Bên chợ Đầm xưa cũ, tôi mãi miên man về hình ảnh trong đôi mắt tuổi thơ tôi một thời - hình ảnh những mớ cá tôm còn lách tách trên treẹc theo vai những o bán cá chân đất chạy bộ qua quãng đồng dài để đến chợ làng trong những buổi sớm mai.
Từ lâu phá Tam Giang không chỉ được biết đến bởi nhiều sản vật cá tôm mà còn bởi vẻ đẹp bình yên và hùng vĩ của một vùng trời nước mênh mông. Nhưng ẩn sau vẻ bình yên ấy là cuộc sống đầy vất vả lo toan của hàng nghìn con người đang hằng ngày mưu sinh bằng nghề chài lưới.
Nghề chài trên phá Tam Giang không biết có từ bao giờ, những người làm nghề đầu tiên là ai thì đến nay chưa thấy tư liệu thành văn nào ghi chép. Nhưng đến giữa thế kỷ XVI thì nghề chài lưới cùng với một số địa danh làng xã từng được khai thác vùng đầm phá Tam Giang xưa đã được nhắc đến trong Ô châu cận lục của Dương Văn An: “Bác Vọng đóng đăng bắt cá, Thủ Lễ đánh cá bằng lưới giăng”. Những dấu tích về vùng sông nước ấy vẫn còn lưu lại trong những tên giáp, tên làng ven đầm phá của huyện Quảng Điền như: Lai Hà, Hà Trung, Hà Bạc, Ngư Mỹ Thạnh, Hà Lạc, Hà Đồ...
Ngược dòng lịch sử, có lẽ những cư dân Champa tiền trú vốn mang sẵn trong mình cảm quan về biển thì nghề chài lưới chắc cũng đã có mặt cùng họ trên vùng đầm phá này trước khi người Việt gắn cho nó những danh xưng như Hạc Hải, Tam Giang. Rồi trong hành trình Nam tiến, trên vùng “Ô châu ác địa” những lưu dân Việt ra đi từ vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã vốn không xa lạ với nghề chài lưới sông hồ cũng có thể đã khai thác cá tôm trìa rạm ven phá để sinh sống nơi vùng đất mới.
Mang theo câu hỏi về nguồn gốc nghề chài của từng vùng, chúng tôi từ Sịa ngược lên phía Bắc theo con đường thiên lý có từ thuở Trần-Hồ ven phá Tam Giang. Cụ Văn Diễn, một lão ngư có thâm niên chài lưới lâu nhất vùng Lai Hà - xã Quảng Thái, nguời ngư phủ già nhưng vẫn còn quắc thước vuốt chòm râu bạc kể chúng tôi nghe những câu chuyện về nghề chài, về thuở khẩn hoang vùng nước lợ của làng: “Vùng đầm phá ngoài tê do ông họ Nguyễn người làng Vu Lai khai canh, nhưng khởi thủy của nghề ni là do một ông họ Phan tên Điền ở mô dưới cửa Tư Hiền lên, thấy vùng ni nhiều tôm cá nên ở lại rồi bày vẻ cho dân làng làm nghề, đời ni qua đời nọ tiếp nối đến chừ”. Chuyện ông Nguyễn Phúc Làng có công khai khẩn phường trúc đăng Hà Bạc thì có văn bản ghi tường tận nhưng tiếc thay câu chuyện về ông tổ nghề chài trên vùng đầm phá làng Lai Hà chỉ còn lại bằng những lời truyền ngôn, tuy có thể không xác thực về lịch sử, nhưng dẫu sao cũng đã trở thành một phần trong đời sống tâm linh của người bản quán. Ngày nay, ngư dân vẫn lập miếu thờ, hằng năm cứ đến 25 tháng Chạp dân “phường sáo” lại tổ chức cúng tế gọi là lễ “chạp nè” để tưởng vọng và nhớ ơn tổ nghề chài của vùng đầm Nịu - Lai Hà.
*
Dọc về hướng nam phá Tam Giang, ngư dân vùng Hà Lạc, Hà Đồ cũng có những truyền thuyết về lai lịch vùng đầm phá và nghề chài của riêng mình, đó là truyền thuyết về Bà Tơ. Chuyện kể rằng, xưa có một người đàn bà sống một mình trên một chuyến thuyền chài ở vùng nước lợ này. Trong một chuyến bôn tẩu gấp gáp của chúa Tiên trên phá Tam Giang, thuyền của chúa bị đứt quai chèo, bà gặp và dâng lên chúa một thúng tơ sống để làm lại quai chèo, về sau chúa ban thưởng cho bà chiếm hữu vùng đầm phá thượng tự Lại Mã hạ chí Côn Nôn. Từ đó dân làng Bác Vọng của bà ra định cư, làm nghề đăng sáo để khai thác cá tôm lập thành hai làng mới là Hà Đồ, Hà Lạc. Ngư dân lập miếu thờ ký thác sự hàm ơn và hằng năm đến ngày húy nhật của bà những người làm nghề chài lưới vùng này đều tổ chức lễ cầu ngư, mong được thuận mùa tôm cá.
Hình thức đánh bắt của nghề chài trên phá Tam Giang nhiều và đa dạng như chính nguồn sản vật mà vùng đầm phá này dâng tặng cho con người. Tùy vào thủy vực và địa hình, tùy từng thời điểm,... mà người làm chài khi thì đóng đăng đặt sáo, đặt lừ, khi giăng lưới, đóng đáy, bỏ chuôm hay kẹp trìa, cào hến... Mỗi vùng lại tập trung một số hình thức chài lưới đặc trưng như: nò sáo thường tập trung nhiều ở Đầm Sam - An Truyền, Vinh Giang, Điền Hải, Quảng Lợi, Quảng Phước...; Nghề đáy tập trung nhiều ở cửa lạch Thuận An; chuôm, dạy xuất hiện nhiều ở vùng nước nông và địa hình bằng như dải Tây Bắc phá ở Quảng Điền; vùng đầm gần cửa sông Ô Lâu thì ngư dân chuyên dũi tép, cất rớ, đặt nò bắt cá nước ngọt; vùng Quảng Công, Quảng Ngạn chuyên bắt trìa, đặt lừ, bủa lưới; vùng Mai Dương, Hà Đồ chuyên cào hến, bỏ chuôm...
Cùng bác Nguyễn Hiền rẽ sóng trên Tam Giang hiền hòa đầy gió, bác kể về những điều mà một người làm chài nước lợ phải biết: “Nghề nỉ phải am tường thủy triều, con nước, biết tập tính của từng loại cá loại tôm rồi phải biết nhìn gió nhìn trời khi nớ làm nghề mới có. Nhưng sóng nước Tam Giang luôn mang trong mình nhiều điều bí ẩn mà ngay chính những ngư phủ sành sõi nhất cũng không tài nào am tường hết. Nên dẫu đã thâm niên trong nghề nhưng người ngư phủ này vẫn có khi “tôm cả đầy bụng ghe, khi lác đác vài con cho có lệ”.
Lòng nước Tam Giang là nơi nuôi sống rất nhiều loài thủy sản bởi tính đa dạng sinh học đặc biệt, vì thế ngư dân chài lưới thường đánh bắt được nhiều loài tôm cá có giá trị, những sản vật đặc trưng của vùng đầm phá Thừa Thiên. Sản phẩm quanh năm thường gặp của nghề chài lưới ở vùng phá Tam Giang là các loại cá như: cá sơn, cá liệt, cá đôi, cá bông, cá móm,... Đây là những loại cá nước lợ điển hình mà nghề chài ở các vùng sông nước khác không dễ đánh bắt được. Tùy thuộc vào độ mặn, mùa khô hay mùa mưa... mà ngư dân Tam Giang còn đánh bắt thêm nhiều loại cá từ biển vào hay từ sông về. Từ tháng 2 đến tháng 8 khi mùa khô đến, độ mặn nước phá Tam Giang được nâng cao thì sản vật của nghề chài có thêm nhiều loại cá biển có đặc tính hẹp muối như: cá đuối, cá trích, cá cơm, cá nhám... đánh bắt được ở các vùng phá gần cửa biển. Từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, là mùa mưa ở vùng Huế, nước vùng bờ Tây - Bắc Tam Giang bị ngọt hóa, đây cũng là thời điểm ngư dân đánh bắt cá nước ngọt như cá diếc, cá Ngạnh... tụ tập về ở các cửa sông.
Bên cạnh các loại cá, thì tôm cũng là sản phẩm phổ biến của nghề chài trên phá Tam Giang. Những loài tôm cọng, tôm càng, tôm rằn, tôm sú, tôm đất mà ngư dân đánh bắt từ đầm phá luôn được ưa chuộng trên mâm cơm của người Huế. Ngoài những mùa đánh bắt cá tôm thông thường, cứ vào độ sau lũ tiểu mãn đến tết Đoan Ngọ người làm nghề chài vùng Tam Giang lại vào mùa bắt rạm, dậm trìa.
Cùng với cá, tôm, trìa, rạm... thì mắm cũng là một sản phẩm khó quên của nghề chài Tam Giang. Ngay từ thế kỷ XVI “mắm cá ong là thổ sản của các đầm phá Thanh Lam, An Lưu huyện Tư Vinh, ở phá Tam Chế huyện Đan Điền là thứ nhì” (Ô châu cận lục) đã được coi là sản vật có tiếng của đất Ô Châu.
Có thể nói, những sản phẩm của nghề chài lưới trên phá Tam Giang làm đa dạng thêm nguồn sản vật trong cơ cấu bữa ăn của người dân Huế, góp phần tô điểm thêm và làm nên diện mạo cho vùng văn hóa ẩm thực xứ Huế.
*
Nếu sản vật đánh bắt cho thấy được cái hào phóng của Tam Giang thì cuộc sống của những ngư dân lại cho ta một bức tranh khác về nghề chài lưới.
Xưa, phá Tam Giang lắm cá nhiều tôm thì nay cái thuở “hễ xuống ghe là tôm đầy cá nậy” chỉ còn câu chuyện của một thời quá vãng. Hình thức đánh bắt tận thu và hủy diệt của không ít ngư dân đã làm cho phá Tam Giang ngày một nghèo thêm sản vật. Cuộc sống của người làm nghề chài lưới cũng theo đó không còn dễ dàng như trước. Theo ghe đặt lừ cùng người ngư dân trẻ vùng Cư Lạc - anh Nguyễn Nhơn - người đàn ông với dáng người mảnh khảnh phong trần, chiếc áo trắng cũ đã ngả ố nối trên màu da bánh mật cứng cáp. Anh thoăn thoắt đôi tay vừa chèo vừa đặt từng đốt lừ đều đặn, nhịp nhàng và bộc bạch về đời sống của người làm nghề: “Tụi tui ra riêng đã gần chục năm mà vẫn chưa xây được cái nhà. Hai vợ chồng làm nghề ni chỉ đủ nuôi cơm 3 đứa con qua ngày”. Nhìn cái chòi tre nứa liêu xiêu ven mặt nước của hai vợ chồng anh, chúng tôi mới cảm nhận được cuộc mưu sinh đầy cay nghiệt của nghề chài.
Cuộc sống của ngư dân Tam Giang cứ tháng ngày theo đuôi con cá con tôm để mưu sinh cùng sông nước. Đến thôn chài Ngư Mỹ Thạnh nói chuyện với ngư chài Trần Hồng, tuổi đời anh chưa quá 50 mà đã có 9 mặt con. Thuở nhỏ sống lênh đênh với gia đình trên sóng nước, lên 6 đã biết bơi rành rọt như con cá con tôm vùng đầm. Lớn lên lập gia thất, con cái đầy đò mà chẳng đứa nào biết trường biết lớp, cứ cùng chiếc thuyền chài nay đây mai đó. Bằng giọng sang sảng vùng chài, anh kể: “Nghề cá mú bữa ni khó sống lắm chú ơi. Làm nghề ni cực, lại không có tương lai nên mấy đứa con tui hắn vô tận Sài Gòn, Bình Dương làm công nhân hết. Ba năm ni Nhà nước cấp cho cái nhà để định cư, mưa gió đỡ lo chứ ở trên nôốc hoài thì không biết khi mô mới khá”.
Nguồn đánh bắt trên Tam Giang đang cạn kiệt, người làm nghề chài lưới đánh bắt tự nhiên quanh năm vật lộn với sóng nước nhưng vẫn không thoát khỏi cảnh nghèo. Những câu chuyện của cụ Diễn về cách đánh bắt chừng mực của ngư dân xưa như: không bắt cá con và cá mẹ đang nuôi con; từ Tết đến mồng 7 tháng Giêng thì không được ra phá làm nghề, khi làng hạ nêu mới được đánh bắt trở lại để khỏi bị “trách quở” bởi thần Đầm. Đằng sau những chuyên nghề, những quan niệm ấy là bài học vẫn còn nguyên giá trị về sự kiêng nể và tôn trọng tài nguyên của người làm nghề chài lưới.
Thuở xưa, những dân chài có tiền của mới có điều kiện làm nghề đăng sáo gọi là “đại nghệ”, còn đa số dân nghèo đều phải kiếm sống bằng những hình thức đánh bắt di động, gọi là “tiểu nghệ”. Ngày nay cũng không khác hơn, đa số dân cư nghèo sông ven phá Tam Giang sống bằng nghề đánh bắt tự nhiên, ít người đủ điều kiện nuôi tôm sú. Vì thế nghề chài gắn bó mật thiết với cuộc sống và số phận của không ít người đang hằng ngày mưu sinh trên vùng đầm phá. Có những phận người một đời chỉ quẩn quanh với phá, có người sinh trên nước rồi chết vùi trong nước cùng nghề; cũng có người sống được và khá giả với nghề nhưng cũng có người đành bỏ ghe nò lưới dũi cầu thực nơi phương xa.
Phóng tầm mắt từ bờ, xa xa là cảnh hàng chục chiếc nón nhấp nhô trên sóng nước của những ngư dân đang mò trìa. Trìa là một loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ sống ở vùng nước lợ, trìa thường và trìa mỡ là hai loại trìa thường gặp ở vùng Tam Giang. Không biết từ thuở nào, con trìa đã có mặt trong những bữa ăn đạm bạc nơi thôn dã rồi “lên Kinh”, “vô Nội” hiện diện trên mâm cơm nơi cao sang, cung cấm. Để rồi loài thủy sản tưởng như rất đỗi tầm thường ấy của Tam Giang lại trở thành một trong những biểu tượng cho sản vật của non sông gấm vóc, được chạm khắc trang trọng lên Thuần Đỉnh, hiện diện nơi Thế Miếu uy nghi. Trìa được coi là một thứ đặc sản của vùng đầm phá, món trìa ngon và được nhiều thực khách ưa chuộng nhưng nghề mò trìa lại là hình thức đánh bắt vất vả nhất của nghề chài lưới Tam Giang. Cứ vào thời điểm con nước ròng là ngư dân Tam Giang xuống nước, đội nón, kéo ghe ra phá để bắt trìa. Người mò trìa phải luôn ngâm mình dưới nước bất kể nắng mưa. Đôi chân trần quờ quạng nơi đáy cát im lìm không ngại gai nhọn, mảnh chai, mảnh sành để lần tìm và kẹp từng con trìa như người nông dân chắt chiu luợm lặt từng củ khoai, hạt lúa. Người mò trìa lần từ vùng nước cạn cho đến vùng nước sâu tận miệng. Thế nên, ngư dân thường tự nói về nghề trìa của mình bằng những câu luôn vần thuận miệng đầy chua chát: Hả mỏ lên trời quờ qua quờ lại, ai ơi chớ dại đeo lấy nghề trìa. Chua xót thế nhưng vẫn phải bám lấy nghề, bởi đó là áo cơm, là đường mưu sinh không thể khác giữa sóng nước Tam Giang. Và trên phá Tam Giang này, cũng có những phận người lầm lũi, nhỏ bé như chính phận hến, phận trìa. Bà Hoàng Thị Bê ở thôn Cư Lạc, xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền đã bước qua cái tuổi 72, đầu bạc lưng khòm và thân hình gầy lọm nhưng phải mò trìa kiếm sống qua ngày. Mẹ cha mất từ thuở nhỏ, không chồng bà kiếm con cho đỡ cô quạnh. Người con trai duy nhất lớn lên, khổ quá bỏ nghề chài lên vùng núi rừng A Lưới đãi vàng để mong một cuộc sống khá hơn. Ngày con ra đi, bà níu áo tỉ tê: “Đừng đi con ơi, không tôm cá thì trìa độn rau hai mạ con mình cũng sống được qua ngày”. Mấy năm sau, nghe đâu người con chết vì sốt rét; một mình bà lại lủi thủi với sóng nước Tam Giang.
Hoàng hôn trên bến đò Cồn Tộc đã xuống từ lúc nào, mặt trời đã khuất dạng sau cánh đồng ven phá, nước Tam Giang phản chiếu một màu trắng xám từ chút ánh dương yếu ớt cuối ngày. Xa xa là những dáng người mệt mỏi, đang ì ạch vác những bao tải trìa chầm chậm tiến vào cầu tàu để bán cho thương lái. Sau cái mệt mỏi cuối ngày, họ vội bán nhanh rồi cầm lấy những đồng tiền ít ỏi quay lưng với mặt nước ngoài kia và trở về nhà trong cái nhá nhem chập choạng tối để hôm sau lại tiếp tục một vòng quay mưu sinh mới với nghề chài.
N.Đ.H
(SDB11/12-13)
VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.
LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.
VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?
TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.
TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam (Huế)
FRED MARCHANT(*) Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.
TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.
TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.
MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.
PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)
TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).
TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.
Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.
Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.
I. Chúng tôi xin tạm hiểu như sau về văn hóa Huế. Đó là văn hóa Đại Việt vững bền ở Thăng Long và Đàng Ngoài chuyển vào Thuận Hóa - Phú Xuân.
Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.
LTS: Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong hiện đang dạy tại trường đại học Kent State thuộc tiểu bang Ohio, . Đây là một trong những bài trích ra từ cuốn Hồi ký âm nhạc, gồm những bài viết về kinh nghiệm bản thân cùng cảm tưởng trong suốt quá trình đi đó đây, lên núi xuống biển, từ Bắc chí Nam của ông để sưu tầm về nhạc dân tộc. Được sự đồng ý của tác giả, TCSH xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Từ sau ngày giải phóng đến nay, tôi chưa một lần gặp lại Anh hùng Vai và Anh hùng Kan Lịch. Về Huế hoài nhưng lên A Lưới lại không đủ giờ và không dễ dàng gì. Những năm trước, đường về A Lưới còn chật hẹp, lổm chổm đất đá, lại hay sạt lở... đi về rất khó khăn và phải mất vài ngày. Đến Huế vào mùa khô thì lại ít thời giờ. Về Huế dịp mùa mưa thì đường về A Lưới luôn tắc nghẽn.