Quan niệm của Thanh Thảo về thơ

09:35 05/02/2009
MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.

Mỗi bài viết của anh đều in đậm cá tính riêng của anh. Trong bài viết như một lời bạt ở cuối cuốn tiểu luận - phê bình "Ngón thứ sáu của bàn tay", nhà thơ Nguyễn Đỗ cho rằng: "Điều mà Thanh Thảo có được trong tập sách này - cái thành công nhất - chính là anh đã được sáng tác, anh viết tiểu luận như là một hối thúc bên trong, giống khi làm thơ" [tr.63].
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến những quan điểm chính của anh được thể hiện trong các bài viết phê bình - tiểu luận, xin tạm gác lại phần quan điểm của anh được thể hiện rất phong phú và đa dạng trong Trường ca và thơ anh, đặc biệt là ba Trường ca: "Đêm trên cát" viết về nhà thơ Cao Bá Quát, "Trò chuyện với nhân vật của mình" viết về nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và "Khối vuông ru bích" với quan niệm "ru bích là cấu trúc của thơ".

Quan niệm thơ được Thanh Thảo phát biểu khá đa dạng độc đáo theo cách cảm, cách nghĩ, cách nói riêng của mình: "Thơ là cái lặng lẽ của con hổ. Ngay con hổ cũng có lúc giật mình vì một tiếng lá rụng. Thơ đi giữa can trường và hoảng hốt, đi giữa cái liều và nỗi sợ... Thơ là con dao găm "Tôi ném vào khoảng trống" (Văn Cao), nhưng người bị thương lại chính là tôi" [Ngón thứ sáu của bàn tay, tr. 5]. Chỗ khác Thanh Thảo phát biểu: "Thơ là chữ nghĩa cũng  không là chữ nghĩa, là ý thức mà không phải ý thức, là vô thức mà không hẳn vô thức. Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ tận cùng của nhà thơ" [Sự đồng cảm trong phê bình thơ, tr.66].

Về bản chất của thơ, Thanh Thảo quan niệm: “Bản chất của thơ là thơ ngây, là bất thường, là xuất kỳ bất ý" [Văn Cao và năm 2000-tr.76], "là tiếng nói của tâm linh, tiếng nói của sự chiêm nghiệm nhiều khi là cả đời người, của nhiều đời người". Những tập thơ có giá trị thực sự, chúng có thể là "Kinh thánh của tâm hồn", là thứ "không thể mua và không thể bán. nhưng lại không thể thiếu cho con người" [Mười năm cõng thơ leo núi, tr.63]. Nhưng "Thơ khác kinh cầu. Nó không tạo ra những cơn mê tập thể. Nó không ru rín" mà nó mê hoặc con người bằng "sự thức tỉnh". "Thơ chỉ dành cho từng người một. Và khi một người đọc thơ cho mình, là người ấy đã đồng hiện với một giáo đường. Vì vậy, có thể coi một người đọc thơ như nghìn người đọc kinh" [Tản mạn về thơ. Tr.79].

Về chức năng giáo dục của thơ, Thanh Thảo có một quan niệm khá mới lạ: "thơ có ích không chỉ vì thơ giáo huấn ai, giáo dục ai, cải tạo ai, mà vì thơ thức tỉnh con người trước cái "trăm năm", thơ đặt con người đối diện với nghìn năm, thơ cho con người một thoáng nhìn lại chính mình một cách bình thản" [Tản mạn về thơ, tr.80]. Chỗ khác, anh thổ lộ: "Thơ đích thực không nhằm giáo dục ai, cải tạo ai, nhưng nó lại giúp thanh lọc tâm hồn con người". Thơ còn là "đôi nạn" giúp người tàn tật "đứng dậy, bước đến với mọi người, là đôi bàn tay chìa ra với mọi người", vâng, chính là thơ, và đôi bàn tay thơ "như đôi lá xanh dung dị, gần gũi" [Lửa xanh thầm cháy mãi không nguôi, tr.12].

Về sức sống của thơ trong cơ chế thị trường hiện nay, Thanh Thảo khẳng định: Nó "vẫn là thứ dây leo khó bảo mà những lưỡi rìu thực dụng chặt đứt chỗ này nó lại mọc lên chỗ khác" [Hướng tới Nobel hay Nobell? Tr.89]. Nhân bàn về sự "bền lòng" của Đường thi, Thanh Thảo đã khái quát về sức sống vĩnh cửu của thơ. Từ chỗ so sánh: thơ Đường "có tuổi thọ hơn cả tuổi thọ của Tề Thiên Đại Thánh, dầu nó không hề được ăn đào tiên", anh bắc cầu dòng suy tưởng của mình sang: cái mà thơ "được ăn chỉ là nỗi đau đớn, tủi nhục, là tình yêu vô hạn của con người. Và ánh trăng, và hoa, và cây cỏ. Cái nó ăn, là cảm giác. Cái cảm giác của một con người như một vũ trụ và của cả vũ trụ như một con người, như một hạt cát, như cái chớp mắt của thời gian". "Thơ có trước Thiên Chúa giáo, có trước Phật giáo, có trước Hồi giáo. Nhưng cho đến thời đại hiện này, thơ vẫn sống mà không có tín đồ" [Tản mạn về thơ, tr.79].

Về mối quan hệ giữa người đọc, dân tộc và thơ, Thanh Thảo có một cái nhìn khá nhất quán: Thơ "phải được đồng bào mình chấp nhận, dù không phải là toàn bộ, trước khi có thể được thế giới công nhận... Bởi không gì hạnh phúc cho bằng được đồng bào mình đồng cảm mến yêu" [Hướng tới Nobel hay Nobel? Tr.90]. "Người làm thơ ngày thường cũng nói nhỏ, họ chỉ nói to hơn trong thơ". Họ "nói về những dự cảm", "hướng đến một cộng đồng, một dân tộc, một đất nước, nó hướng đến Con Người, đến toàn nhân loại" nhưng "thơ vốn âm thầm, tìm được một người tri âm đã mừng hết lớn, đâu dám ước ao mê hoặc được hàng vạn hàng triệu người" [Có một dòng sông 80 tuổi, tr.139].
Về quan hệ giữa thơ và cuộc sống, đặc biệt là hiện thực chiến tranh, là người nằm ngay trong cuộc chiến, anh tâm sự: "Chiến tranh là một trải nghiệm khốc liệt" không ai mong muốn, "nhưng rồi khi phải đối đầu với nó, phải ngập chìm trong nó, và may mắn cuối cùng thoát ra khỏi nó". Lúc đó, "người ta có thể coi những bài thơ rất bình thường mình viết được trong chiến tranh như những vắt cơm đã nuôi mình khi đói, như hớp nước cuối cùng trong bi-đông mà mình sẻ chia với đồng đội, lại như một ân sủng mà mình nhận được" (Về thế hệ những nhà thơ chống Mỹ, tr.4).

Thanh Thảo cũng quan niệm: nói đến thơ là nói đến sự sáng tạo, nhưng cách nói của anh cũng độc đáo như thơ anh: "Hơn ai hết, người làm thơ phải là người bình tĩnh khi buông dây câu về vô định mong giật được con -cá - bặt - tăm...Nghĩa là khi làm thơ, nhà thơ biết mình sống trong lòng sự sáng tạo. Đó là niềm tự hào và điều an ủi lớn nhất đối với một nhà thơ" (Hướng tới Nobel hay Nobell? tr.90). Thách thức của thơ mà cũng là sự quyến rũ của thơ là: "Thơ chẳng ai giống ai, chẳng ai mong muốn giống ai, và không có lối đi nào chung cho hai nhà thơ cả" ( Mười năm cõng thơ leo núi, tr.66).

Bàn về thi pháp, Thanh Thảo bắt đầu bằng sự liên tưởng từ bóng đá (mà tên tuổi anh xuất hiện thường xuyên với cách bình luận rất riêng): dấu ấn thi pháp của từng nhà thơ chính là những "cú sút" từ ngữ trong thơ, "sút lọt" vào "khung thành ẩn hiện của thơ". Thi pháp của một nhà thơ "được coi như một thứ kĩ thuật đi bống, dắt bóng", chỉ khác là "khung thành trong bóng đá luôn hiện rõ trước mắt cầu thủ, còn "khung thành" trong thơ lại lúc ẩn lúc hiện, và người là thơ chẳng biết khi nào thì đưa được ngôn từ vào đúng dòng thơ, vào "lọt" bài thơ. Những "cú sút" từ ngữ trong thơ mang nặng dấu ấn thi pháp của từng nhà thơ" ("Thời máu xanh" và số phận người lính, tr.124-125).

Về ngôn ngữ, hình tượng, biểu tượng thơ, Thanh Thảo quan niệm: chớ nên tưởng rằng "ngôn ngữ thơ là làm phong phú ngôn ngữ con người", mà "nó chỉ chắt lọc tinh túy của ngôn ngữ con người". cũng đừng nghĩ rằng: những hình ảnh,những biểu tượng thơ chỉ có kích thích trí tưởng tượng của con người, mà "nó còn khiến con người vững tin rằng ngoài những hình ảnh thế giới  mà mình thấy được, cảm nhận được còn những hình ảnh mà mình chưa thấy nhưng sẽ thấy, chưa cảm được nhưng sẽ cảm được. Có những giấc mơ mình sẽ mơ, và có những cuộc đời mình sẽ sống cùng với cuộc đời chính mình đang sống" (Tản mạn về thơ, tr.81).

Có người phỏng vấn hỏi rằng: "Có cảm giác anh đã bắt kịp một chân sang thơ hiện đại-điều rất khó đối với một thế hệ thơ thời chiến?", Thanh thảo bộc bạch: "Thực ra, nhà thơ cách tân không phải lúc nào cũng chăm chăm làm cho mình quái lạ đi. Làm thơ phải cực kỳ đơn giản, làm mà như không ấy" [Tôi hối hả quét dọn con người mình, tr.88]. Anh quan niệm: Tư duy thơ hiện đại là kiểu tư duy có bước nhảy cấu tứ thơ đầy khoảng lặng tạo nên rất nhiều "không gian rỗng" trong thơ: "Chính ở khoảng giữa của những câu thơ độc lập tương đối, đã ẩn hiện cái không gian rỗng của bài thơ, là cái thoạt nhìn, mới đọc cứ ngỡ như không thấy gì, không nói lên điều gì. Cái kỳ lạ của thơ là ở đó: chữ nương tựa vào không - chữ, chỗ dày rậm cậy nhờ chỗ trắng trong, không - gian - đặc được cấu trúc lên nhờ không - gian - rỗng". Anh cho rằng: khác với thơ cổ điển, thơ hiện đại "không nhằm vào từng câu thơ" mà nhằm vào "từng mảng thơ", "những mảng tối, mảng sáng trong bài thơ đan xen nhau, những mảng có nghĩa và vô nghĩa đan xen nhau… buộc tiềm thức, vô thức của ta phải làm việc, buộc ta phải ngụp lặn xuống lòng nước tối, ngụp lặn vào chính những giấc mơ của ta" [Tản mạn về thơ, tr. 80-81]. Chính cái "lòng nước tối", "những giấc mơ" ấy đã tạo nên độ mờ nhòe nghĩa lý câu thơ của Thanh Thảo. Anh rất tâm đắc với "Lý thuyết phân tích tinh thần" của Erich Fromm: "Tuyệt đại đa số các giấc mơ có một đặc trưng chung: chúng không tuân theo quy luật logích đã chi phối lộ trình tư duy khi chúng ta thức tỉnh; ở đây phạm trù thời gian, không gian bị coi thường" [Ngôn ngữ bị lãng quên, tr.11].

Đánh giá sự vận động của thơ Việt Nam những năm cuối thế kỷ XX, Thanh Thảo nhận xét: "Mười năm thơ Việt cuối thế kỷ là mười năm có những chuyển động ngầm, như những khối sóng dưới lòng sông sâu, những chuyển động có một bề nổi hòa hoãn, nhưng một bề chìm quyết liệt, nhiều lúc không khoan nhượng" [Mười năm cõng thơ leo núi, tr.64)]. Trong bài phát biểu có tựa đề "Thơ mãi mãi là bí mật" (mà sắp tới nó sẽ trở thành đầu đề một tập phê bình - tiểu luận dày hơn 400 trang đang chuẩn bị xuất bản) tại Liên hoan thơ quốc tế ở Pháp (11/2003), xuất phát từ “một ánh nắng vàng hoe” của Maiacopxki, Thanh Thảo nhận định: "Ánh nắng ấy là thơ, mà sự bí ẩn của nó không chia đều cho tất cả mọi người , trong tất cả mọi thời điểm của cuộc đời. Nó có thể đến với người này, lúc này, với người khác, lúc khác. Bất chợt hiện và bất chợt tan... Thơ không từ chối bất cứ cái gì, nhưng thơ khao khát sự bí ẩn".

Chính quan niệm "Thơ mãi mãi là bí mật" nên cả cuộc đời thơ của mình, Thanh Thảo, từ trước đến sau, vẫn cứ khư khư giữ mãi cái khoảng lặng bí mật ấy. Vì thế, người ta bảo thơ Thanh Thảo quá khó hiểu cũng có cái lý của nó. Gần đây nhất, trong bài trả lời phỏng có tựa đề "Thơ chẳng là gì nhưng cũng có thể là tất cả", Thanh Thảo tóm lại quan niệm thơ của mình: "Quan niệm của tôi về thơ vẫn thế, chẳng có gì mới hoặc cũ hơn". Có thể có người "thay đổi hẳn quan niệm của mình" hoặc "ngộ" được thơ sau khi đọc một bài thơ. Nhưng cũng có người chỉ để "khẳng định thêm những điều mình đã nghĩ". Còn theo anh, "thơ phải hiện đại, bởi chúng ta đang sống thời hiện đại nhưng muôn đời, thơ vẫn là chuyện rút ruột rút gan mình ra mà thôi" [tr.82-83].

Khi được hỏi về sự ảnh hưởng của phương Tây trong quá trình hiện đại hóa thơ ca Việt Nam, Thanh Thảo trả lời rất đơn giản: "tính hiện đại" không phải do "những kĩ thuật thơ phương Tây" mang đến, "mà còn đến từ sự phối hợp tự nhiên và bất ngờ của thơ phương Tây với khả năng dồn nén, tích chứa, u mặc, phẳng lặng mà sâu thẳm của thơ phương Đông, của tâm hồn thơ Việt. Và cái chính là phải qua ngôn ngữ riêng biệt của từng nhà thơ" [Thơ chẳng là gì nhưng cũng có thể là tất cả, tr.83].
Về cái đẹp trong thơ, đặc biệt là thơ hiện đại, anh cho rằng: đây là vấn đề không đơn giản, nhưng anh khẳng định: "Cái đẹp của thơ bây giờ phải khác thôi...có thể "tục"(vulgarism), có thể "bẩn" (dirty) mà vẫn đẹp đấy. Bởi chỉ có Đức Mẹ Đồng Trinh mới sinh con mà hoàn toàn sạch sẽ, tinh khiết thôi. Các cuộc sinh nở bình thường khác, những cuộc sinh nở của con người, đều có phần "vulgarism" và "dirty". Thơ cũng vậy thôi. Có điều, cái cuối cùng là "đứa con", là "bài thơ" như một sản phẩm tự nhiên, sống" [Thơ chẳng là gì nhưng cũng có thể là tất cả, tr.85].

Là một nhà thơ có một giọng điệu thơ "lạ" ngay từ những ngày đầu cầm bút, sau những thành công ban đầu, Thanh Thảo không "chững lại” mà luôn tự vượt lên mình. Là một người say mê nghiên cứu các lý thuyết, các trào lưu văn học hiện đại phương Tây kết hợp với thực tiễn sáng tác của mình, Thanh Thảo đã có những quan niện thơ đáng để ta ghi nhận.
                Tháng 12/2004
                M.B.A

(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)

  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.