Quan điểm của Nam Cao về văn chương và nghệ thuật

10:19 03/06/2008
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)


Nam Cao bước vào làng văn từ năm 1936, lúc ông mới 19 tuổi, với những truyện ngắn đầu tay nhuốm đậm màu sắc lãng mạn. Phải đến khi tuyệt tác Chí Phèo và tập Đôi lứa xứng đôi ra đời vào năm 1941, ý thức nghệ thuật hiện thực của Nam Cao mới được khơi dòng mạnh mẽ.

Ngòi bút của Nam Cao dường như đã bắt được mạch sống cuộc đời và cái "tạng" của riêng mình, liên tục cho ra mắt một loạt truyện ngắn và cả tiểu thuyết đặc sắc trong vòng 3 năm, từ 1942 đến 1945. Như vậy là, phải mất gần 5 năm Nam Cao mới "cập bến" chủ nghĩa hiện thực; so với các nhà văn hiện thực tiền bối xuất sắc như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố... thì quá trình "tìm đường" và "nhận đường" ở Nam Cao diễn ra liên tục và vất vả hơn nhiều. Tuy nhiên, nhờ thế mà giai đoạn sáng tác sung mãn nhất của đời văn Nam Cao luôn có sự đồng hành của hệ thống các quan điểm nghệ thuật hiện thực, không ở bên ngoài hay phía trước để "dẫn đường" mà hóa thân trong chính những hình tượng nhân vật sống động của tác phẩm, như Điền (Trăng sáng), Hộ (Đời thừa), Lộc (Truyện người hàng xóm), Ngạn (Nhìn người ta sung sướng) v.v...
Với Nam Cao, nghề văn cần nhất là tiềm năng sáng tạo. Nhà văn chân chính nhất thiết không phải là một "người thợ", dù có là người thợ khéo tay đi chăng nữa, do đó đi theo lối mòn, rập khuôn, xơ cứng, theo Nam Cao, là điều tối kị đối với người nghệ sĩ. Cạn nguồn sáng tạo, văn chương chỉ còn là thứ sản phẩm "rất nhẹ", "rất nông", "vô vị", "nhạt phèo" – như suy nghĩ của nhân vật nhà văn Hộ trong truyện ngắn Đời thừa. Hộ cho rằng: "Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có". Do vậy, để có thể "đem một chút mới lạ gì đến văn chương" thì không thể thỏa hiệp được "thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi".
Phải sáng tạo cái mới, và đạt tới mức sâu sắc. Song cái mới tuyệt nhiên không phải là cái lạ lẫm, cái lập dị, tồn tại thuần túy tự thân; mà phải vì con người, vì sự thật, vì thiên chức cao quý của nghệ thuật. Trong Những truyện không muốn viết, nhân vật Cao kể rằng, mình đã bị bạn thân trách là "đổ đốn", "dơ dáng" vì "đem chuyện hắn ra mà viết"; song Cao là người trong cuộc nên thấm thía những chuyện không muốn viết ấy "bao giờ nghe cũng buồn". Vì sao? Nhân vật Điền phát biểu trong Trăng sáng: "Cái khổ làm héo một phần lớn những tính tình tươi đẹp của người ta", và để cho sự héo tàn tính người trong con người bớt đi giữa cuộc đời thì "nghệ thuật không cần phải là áng trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than".
Viết lời Tựa cho tập truyện Đôi lứa xứng đôi cuối năm 1941, nhà văn Lê Văn Trương thẳng thắn nói rằng: "Giữa lúc người ta đắm mình trong những truyện tình thơ mộng và hùa nhau "phụng sự" cái thị hiếu tầm thường của độc giả, ông Nam Cao đã mạnh bạo đi theo một lối riêng", cho dù "những cạnh của tài ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới, sâu xa, chua chát và tàn nhẫn". Nam Cao không đối lập mình với văn chương lãng mạn đang nở rộ lúc bấy giờ, song nếu lãng mạn và kiểu cách tới mức gieo vào đầu người ta "đầm đìa thuốc phiện" giữa lúc cuộc sống của những số phận "thấp cổ bé miệng" chứa chất bao điều khốn khổ, thì ông nhất quyết không đồng tình. Nam Cao thành thực lớn tiếng bênh vực, đề cao kiểu văn chương "thoát thai từ những kiếp lầm than". Chối bỏ điều này, với ông chỉ là thứ văn chương nhạt nhẽo, vô duyên, thậm chí là dối trá, lừa mị. Trong tác phẩm Trăng sáng, Nam Cao đối sánh biểu tượng lãng mạn của ánh trăng với thực tế khách quan của nhân sinh để khẳng định chân lý, lý tưởng của cái đẹp nằm ngay ở chính sự thật cuộc đời:" Chao ôi! Trăng đẹp lắm! Trăng dịu dàng và trong trẻo và bình tĩnh.Nhưng trong những căn lều nát mà trăng làm cho cái bề ngoài cũng đẹp, biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp mình!". Đó là sự đối sánh cái bên ngoài và cái bên trong, cái hiện tượng và cái bản chất, cái nội dung và cái hình thức.Bản chức của văn chương, theo Nam Cao, phải nói cho được, cho rõ sự thật đang tàn phá nhân thể, nhân tính con người, như Điền nghĩ: "Điền muốn tránh sự thực nhưng trốn tránh làm sao được" (Trăng sáng), và như Lộc nói: "– Anh viết những cái gì? – Những cái tôi vừa nói với anh, nghĩa là sự thật" (Truyện người hàng xóm). Ở đây ta nhận thấy sự gặp gỡ giữa Nam Cao và một bậc thầy khác của dòng văn học hiện thực Việt Nam 1930-1945 – nhà văn Vũ Trọng Phụng. Không giấu giếm lòng căm hờn trước trật tự xã hội đầy ngang trái đương thời, Vũ Trọng Phụng kêu gọi sự can đảm và thành thực của nhà văn "tả chân": "Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thật ở đời". Nam Cao, như nhân vật Điền, "chẳng cần đi đâu cả", "chẳng cần trốn tránh', "cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời". Vừa đau đớn, vừa trầm tư mà lại ung dung lên lộ trình sự thực ở đời, thế giới nghệ thuật trong sáng tác Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám luôn đứng vững trên mảnh đất điển hình hóa, coi trọng độ trung thực, chính xác của những chi tiết cụ thể, mang sắc thái cá tính độc đáo trong mô tả con người và cuộc sống... vốn là những nguyên tắc mỹ học bao trùm của chủ nghĩa hiện thực.
Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Nam Cao lên Việt Bắc, tự chiêm nghiệm và trải nghiệm "đôi mắt nghệ thuật" của mình từ khói lửa của cuộc chiến tranh, lòng không nguôi nghĩ suy về tư cách "con dân nước Việt", về trách nhiệm của nhà văn và văn chương trước vận mệnh của dân tộc. Tự nhìn nhận cho đúng về mình cũng là để nhìn người cho chân thực, để tự soi mình và để tiếp cận cuộc sống, sự thật. Trong nhật ký Ở rừng, Nam Cao chân thành tâm sự: "Nhiều khi phải biết quên mình đi. Quên cái tên tuổi của mình, nếu muốn thành người có ích. Có cần gì phải cầy cục ghi tên mình lại cho lịch sử? Tạo ra lịch sử là một việc làm lớn lao hơn. Nhưng tạo ra lịch sử lại là sự nghiệp của số đông. Ta nên nghĩ đến cái số đông nhiều hơn ta". Trước gian khổ và hy sinh lớn lao của cuộc chiến tranh vệ quốc, mỗi người cần "biết hy sinh, biết chiến đấu, chiến đấu lặng lẽ, chiến đấu không nghĩ gì đến tên mình, không nghĩ đến cả thân mình nữa". Cho nên, Nam Cao luôn đặt công việc làm văn của mình bên cạnh công việc của những người đi kháng chiến nhằm tìm ra cái ý vị văn chương mà cuộc sống đang cần. Ông không giấu giếm sự thật là trong ông tồn tại cả hai ý nghĩ về công việc làm văn. Một mặt, "vẫn còn những lúc thằng nghệ sĩ cũ trong người tôi vùng dậy"; mặt khác, ông tự chất vấn mình: "Sao tôi lại không thể dằn cái ý muốn kiêu căng của tôi xuống, để góp sức vào công việc "không nghệ thuật" lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn", tức là tham gia vào công tác tuyên truyền, động viên toàn dân kháng chiến cứu nước. Ý thức ấy được Nam Cao nâng lên thành quan điểm lý luận có tính chất định hướng hoạt động sáng tạo của mình trong bài viết Vài ý nghĩ về văn nghệ đăng trên báo Cứu quốc, tháng 7-1948: "Điểm lại những tác phẩm cũ của chúng ta, chúng ta thấy tác phẩm nào cũng có khuynh hướng cả. Riêng về địa hạt văn chương, từ Trần Tuấn Khải, Tản Đà đến Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Vũ Hoàng Chương... Từ Tố Tâm qua những tiểu thuyết của Tự Lực Văn đoàn đến những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Lê Văn Trương, Vũ Bằng, Nguyên Hồng, Tô Hoài v.v... đều đẩy cho người đọc có một thái độ nào đó trước cuộc đời, đẩy họ phản ứng lại cuộc đời cách này hay cách khác... Phân tích cho thật kỹ, bới tìm đến tận cái cốt ở bên trong, ta thấy tác phẩm nào cũng tuyên truyền tranh đấu".
Những ý tưởng, quan điểm của Nam Cao về nghề văn và lao động sáng tạo nghệ thuật, trước cũng như sau Cách mạng tháng Tám, cho thấy ông luôn "nhập cuộc" văn chương bằng một cái tâm sáng trong, đầy nhiệt huyết. Khởi nguồn từ cội rễ nhân văn ấy, tác phẩm của Nam Cao luôn cắm rễ sâu xa, gắn bó thắm thiết với mảnh đất hiện thực, luôn sáng lên những suy tưởng lớn bởi sự khám phá chiều sâu số phận con người và cuộc đời ngay trong những cái – hàng – ngày ấm nồng hơi thở sự sống. Cội rễ ấy đã nuôi dưỡng và phát lộ tài năng văn chương xuất chúng của ông, đưa ông trở thành một nhà nhân đạo lớn, một nhà văn hiện thực bậc thầy.
Huế, tháng 9-2001

NGUYỄN DUY TỪ
(nguồn: TCSH số 153 - 11 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.