TRẦN HẠ THÁP
Minh họa: Nhím
Chính bản
Ngày 21 tháng 9 năm Giáp Ngọ (tức 14/10/2014): giỗ kỵ ngài đầu tọa chi phái trong họ tộc. Từ đường: tại làng quê cách thành phố H hơn mười km quốc lộ 1A. Thời tiết: âm u, chưa mưa gió hay lụt bão như nhiều năm về trước.
Chú Dg: nam thành viên chi phái cư ngụ thành phố H, là hậu duệ đời thứ: 9. Lịch trình dự trù tham dự: khởi hành lúc 6 giờ sáng. Sau khi hoàn tất cuộc lễ tại làng quê, trở về thành phố H lúc 6 giờ chiều cùng ngày. Phương tiện di chuyển: xe honda 50 phân khối đời 86.
Trang bị cá nhân: bị rết đeo vai đựng áo mưa, ống sáo trúc và thẻ hương. Ngoài ra, còn có phần hiện kim, hiện vật đóng góp vào quỹ chung theo lệ định (1 lon gạo cộng 5 chục ngàn đồng mỗi một nam thành viên đã lập gia đình).
Sinh hoạt: thường niên chiếu lệ. Dạng thức: với nghi lễ cổ truyền đơn giản.
Ghi nhận đột xuất: một số phụ bản ngày có tính phức tạp, ngoài tiên liệu. Tất cả được đính kèm sau chính bản ngày, như nguyên thể phát sinh.
(hết phần chính bản).
*
Phụ bản (1):
Tờ giấy nhỏ để giữa bàn. Đồng bạc 1 trăm ngàn chồng lên, cả hai được dằn kỹ dưới một gói mì tôm chưa xé. Lấy lên đọc:
“…5 chục đóng giỗ kỵ 2 chục đổ xăng. Dư để phòng lỡ khi bể lốp dọc đường. Bì ni lông đựng gạo góp em để sẵn giỏ xe. Mắt kém đi sát lề chậm nghe. Rồi việc anh lo về, tối đèn pha chói mắt nguy hiểm lắm. Em ra chợ…”.
Soát lại “xăng còn đủ”. Xe nổ máy ra ngõ và 10 phút sau dừng ở một sạp lẻ vệ đường. Hết 5 chục cho 5 tấm vé xổ số. Tờ 1 trăm còn nửa. Người bán, kẻ mua cùng tươi cười đặt niềm tin vào hy vọng…
Cuộc “dồn phiếu” đầu ngày, cật lực cho thứ dẫu rất “mong manh nhưng không hề lưu manh”. Khả năng hiện thực quá nhỏ nhưng xổ “ra số” vẫn tốt hơn xổ ra “loại thiên đường không số”. Không hề ra mặt tiền, là loại thiên đường tít mù trong hẻm hóc, mệnh danh các “khu nhà ổ chuột”.
*
Phụ bản (2):
Anh H thủ từ phân bua:
- Con cháu lớn lên làm ăn khó khăn đi xa cả. Tình hình đóng góp thường niên chiếu lệ có mấy mô? Nghiệt vật giá ngày mỗi cao. Các chú coi lại mức đóng góp 5 chục ngàn, một lon gạo ra răng hè? Tui chộ ít ỏi quá. Đã đành “có chi cúng nấy” rồi “trước cúng sau cấp”. Nói lạy vong linh ngài, tiên tổ không đòi hỏi nhưng đó là phần lễ. Còn phần hội khi ngồi lại với nhau, năm có một lần chú bác con cháu… Đạm bạc quá!
Anh Thg xua tay:
- Phát sinh ra cái tiền bia bọt. Tụi mình lớn tuổi uống ăn chi mấy?
Tụi trẻ đời ni lợi dụng giỗ kỵ đông người, uống vô say sưa toàn nói năng ba láp tai nạn đầy đường. Vô ích! Cứ rứa mà đóng. Trừ ai có hoàn cảnh tật nguyền, ốm đau bệnh hoạn, người ngoại tỉnh ở xa không về, được miễn. Còn chú bác tới con cháu, hễ nam đã lập gia đình thì mức đó. Một lon gạo, 5 chục ngàn “nhứt nhứt đẳng phần” không thêm bớt. Đừng có đẻ chuyện ra..!
“Bàn thượng” không còn ai nói thêm. Còn “bàn hạ” cứ tiu nghỉu nhìn nhau. Sau rốt, có đứa đứng lên:
- Thưa các bác, các chú. Như rứa, hơi buồn là giỗ kỵ thắp hương xong, ngồi mấy phút ai lo về nhà nấy. Mặt trời chưa tắt, từ đường đã “hương tàn bàn lạnh”. Đóng góp hơn tí cho ấm áp.
Chú Dg ở phố về, tỏ vẻ hiểu ý “bàn hạ”:
- Giỗ kỵ tức là “lễ hội gia tộc”. Đã có lễ cũng nên lưu tâm phần hội. Giả như cuộc lễ nào cũng chỉ để nhắc nhủ trách nhiệm, không có gì vui vẻ đính kèm như… kiểu văn nghệ chẳng hạn, sẽ khô khan thiếu nô nức trong tâm lý hướng về…
Thưa các anh mình đã nghèo, nghèo thêm chút có sao? Riêng tôi đồng ý kể từ năm tới gắng tăng mức đóng góp thêm 2 chục, thành 7 chục ngàn. Phần gạo mỗi người một lon không thêm bớt.
… Chưa hết, buộc phải hứa ngay từ bây giờ. Ai “rượu vào lời ra”, chi phái từ mặt. Thằng nào đại diện chịu trách nhiệm? Hay lâm sự đổ vấy cho tập thể là xong? Đừng học thói quỷ biện ngoài đời cứ “bãi lầy tập thể” lũ cá sấu ngoạm mồi xong, lặn mất…
“Bàn hạ” tất nhiên đồng ý. Đồng ý trong tự nguyện và chịu trách nhiệm rõ ràng. “Bàn thượng” đưa mắt nhau. Họ thành công khi đã ngầm chơi một trận “bóng chuyền” mỹ mãn.
Xưa nói “phép vua thua lệ làng” hoặc “quốc có quốc pháp, gia có gia quy” song phải chăng còn tùy vào mỗi khúc quanh lịch sử, mỗi đơn vị gia đình, gia tộc? Dù bị đánh lẫn vào những tạp chất ô trọc khác. Dù âm thầm nhưng không phải đã cáo chung, đã tàn lụi thứ “giềng mối” mà tiên tổ đã lưu truyền.
Học “một sàng khôn” phải đi mất “ngày đàng”. Nhưng đi quanh xóm “học lóm cha ông” lại là đường dẫn gần nhất tiếp cận những gì lung linh tồn tại đến ngày nay…
*
Phụ bản (3):
Các vị cao niên lo trần thiết bông chuối ở nội thất từ đường. Bọn thanh, tráng niên chừng mươi người tụ hợp cùng 5 con chó đi săn.
Thằng cháu lớn nhất tuổi 41, giải trình lý do:
- Trong khi chờ lễ cúng 2 giờ chiều. Xin chú bác cho tụi cháu về lót bụng tại nhà xong kiếm ít thịt hiếm, trước về cúng tiên tổ sau là vui vẻ trong ngày giỗ kỵ năm ni. Được nhiều ít, đôi ba con cũng là quý. Chồn cáo, chồn đèn thiếu chi… Chỉ chồn hương hiếm, bộ dái thơm mùi “xạ hương” làm thuốc to tiền lắm!
Các chú bác ở quê, khoan khoái gật gù. Họ gần như đều trải qua một thời trẻ trai như thế. Còn nói:
- Tụi bây giỏi chi mấy! Thời trước giỗ kỵ ngài, tụi tao săn về có khi mô dưới chục con không? Chồn mà “hon” thơm nói chi nữa.
Thằng cháu cười tươi:
- Chú bác mô cũng rành rồi. Chỉ chú ở “dưới phố” toàn nghe đi học, chưa biết thịt chồn “hon” cái chắc. Lần ni, cho chú biết!
Chú “dưới phố” chịu thua, không biết nói sao trước cái rộn ràng sôi nổi của hết thảy mọi người. Họ hào hứng. Họ vui lên thấy rõ…
Âm thanh sừng sực của 5 con chó bắt đầu vang lên từ đầu xóm.
Những con chó rất được cưng quý ở làng quê. Chúng không hề là chó kiểng, chó Phú quốc, chó Fox xù, hoặc chó béc-giê hung hãn.
Không bao giờ là loại ngồi xế hộp, tắm biển và tiêu chuẩn được ăn theo “cấp tướng”… Chó quê quen ăn nhiều rau như chủ chúng.
*
Phụ bản (4):
Chó ở làng quê đích thực là “kẻ bảo vệ” nương vườn, “nhà kiến tạo” thức ăn đặc sắc, “thành viên phụ” tích cực góp phần đáng nể vào lễ hội “tri ân tổ tiên chi phái”. Là loại luôn có mặt mọi hoàn cảnh, tuyệt đối đi theo chủ bất chấp đói rét, nắng mưa kể cả khi khổ chủ đã thành kẻ vong gia, vùi đời kinh tế “mới” với hai bàn tay trắng…
Đó là Vàng, Vện, là Ki là Mực, Vá... Những con chó thuần gốc Việt. Khỏi cần giải thích tại sao? khi mà đột ngột chúng bị đánh cướp, bị dã man bán vào lò thịt chó. Lòng dạ người dân quê quặn thắt. Họ nghẹn ngào ứa lệ.
Chúng được nuôi không phải để săn người, không ác hiểm như những con chó từ “lốt người thoái hóa”. Chúng là bạn tốt, là một loại “con em” các chủ nhân nơi ruộng đồng nghèo khổ…
Đoàn chó 5 con của tụi săn chồn hôm nay tự do lăng xăng, chẳng cần dây buộc cổ. Chúng được nuôi ở mỗi một nhà, nhưng khi đem tụ tập sân từ đường lại không hề cắn xé lẫn nhau. Sao thế nhỉ? Một cơ hội hết sức quý hiếm để chúng gặp mặt nhau chính thức.
Có cả thi đua dã ngoại hào hứng kèm với lợi ích đặc biệt (chúng rõ có phần cỗ tưởng thưởng cho riêng mình). Chó làng quê không chỉ làm vui lòng chủ nhân, mà còn nhiều hơn thế. Trưa vẫn âm u mây xám nhưng tất cả người và vật đều hí hửng lên đường…
Sự thật, ngày thường ở làng quê không ai nhốt chúng cả. Những con chó thuần Việt đích thực đều tự do từ một thuở ngàn xưa. Mới đây thôi, phong trào trộm chó chích thêm một vết thương tàn bạo vào cái tổ gần khô chất ngọt, tổ ong mật quê hương. Đừng nói gì người, đến chó cũng trở thành “tù nhân không tội nhân”!
Từ tư thế đang bảo vệ người, người lại quay ra bảo vệ chó. Ở đâu ra, từ khi nào, cho ai? mọc lên và thịnh hành loại “xực cẩu quán” vốn trước đây quá hiếm ở miền này. Điều cho thấy trong lịch sử, qua lát cắt của “bi kịch chó”, đạo lý chính tông do tiên tổ truyền lưu đã và đang thương tổn ngậm ngùi…
Chắc giờ nầy chúng đang vô cùng khoái hoạt chạy vòng quanh chân núi. Thật “hãnh diện giùm” cho 5 con chó thân thương… Khi mà trong hoàn cảnh “chưa hề đủ tư duy”, chúng thiếu đi cái khái niệm phản phúc, lưu manh.
Ồ, đừng xúc phạm chó! Con người thường đem chúng ra nhằm rủa xả lũ phản quốc buôn dân, loài cợt nhả tổ tiên, thứ khi sư diệt tổ: “đồ chó”, “đồ chó má”, là “chó lợn không bằng”…
*
Phụ bản (5):
4 giờ chiều. Nắng đột ngột lóe lên. Trận nồm đâu biết cuối thu..?
Trời không còn trừu tượng xám. Bị rết ống sáo trúc thẻ hương hồi ức. Một mình đi cho đến hết mặt trời…
Nổi nửa người qua sóng lau tràn cồn bãi. Cọt kẹt bụi tre kêu ngầu dấu mắt u hoang… Đã lột vỏ bỏ đi đâu hồn rắn? Gởi. Gởi. Gởi lá xuyên không thư bay lạc cõi dương trần, vô nhận…
Hỡi phiên chiều… Kẻ lang thang về đứng bến thật hư? Soi bàu nước váng vàng ngây bóng ngó. Bì bõm… Bì bõm nhái cõng rêu chắp tay ngày bụi cỏ. Đã bái biệt hoàng hôn!
Lạy gió…
*
Phụ bản (6):
Trường kỷ từ đường. Khói trầm hương. Chữ viết gốc rạ chen mặt sau tờ vàng mã:
“…nơi nào vắt áo bụi tre
nồm reo trong lá mây về cô thôn…
là nơi xin dựa gốc lòng
một tôi sáo thổi tay nâng điệu chiều
nơi nào miễu vắng tàn xiêu
đậu con cà cưỡng trong kêu cô hồn
là chân khi lội ngang đồng
sóng lau còn dợn xanh tràn qua xưa…
nơi nào lột vỏ nang khô
xỏ chân tiểu tử cười mơ dặm hài
là nơi tìm mãi không ai..?
thuở trâu lăn vũng thời ngây cánh cò
nơi nào cau rụng tàu mo
dựng con ngựa kéo lò cò quanh sân
là đây cúi trước mộ phần
ngậm nghe sâu cạn mẹ phân chuyện hò
nơi nào nhạt nắng như tơ
vương lan là khói che mờ là sương
lạnh rồi bếp cũ người nhen
còn nguyên đó đụn rơm buồn cõi con…”
(Hết phần phụ bản).
Vườn đá, thành nội Huế, 12 tháng 11/2014
T.H.T
(SDB16/03-15)
ĐỖ QUANG VINH
Mọi chuyện bắt đầu với gói bưu phẩm, nó tới vào một ngày thứ tư nắng đẹp khi tôi đang ở chỗ làm. Người giao hàng đã bỏ nó lại trước cửa nhà mà không gọi điện thoại cho tôi, cũng không yêu cầu ký nhận gì.
NGUYỄN MINH ĐỨC
1.
Tảng sáng, bảy phát đại bác vội vã nã trống không xuống dòng Giang. Mặt đất rung chuyển. Bảy tiếng nổ liên hoàn kết thành làn sóng âm trong sương sớm.
DƯƠNG THÀNH VŨ
Tôi lại thất nghiệp.
Thượng Đế vốn nhân từ và công bằng. Ngài ban cho kẻ thừa tiền lắm của những lạc thú trần gian thì cũng ban cho cậu thiếu niên mười sáu tuổi đầu, không nơi nương tựa, sức chịu đựng bền bỉ, trí khôn đối phó với hoàn cảnh và bươn chải với đời.
BẢO THƯƠNG
Một dạo chúng tôi hay bàn luận về một cây viết bí ẩn, anh ta dùng bút danh Super, nhưng chẳng bao giờ lộ mặt; chúng tôi gõ đủ trên Google về cái tên nghe như nhân vật của một đế chế trò chơi nào đấy nhưng rặt không biết.
NGUYỄN VĂN HỌC
1.
Dễ đến sáu năm rồi, Hân có thói quen vừa xõa tóc bên hoa vừa nghe nhạc. Cô thích nhạc buồn, da diết nỗi niềm và ầng ậc nước mắt. Chả riêng dòng gì. Cô đắm vào đó.
LÊ MINH PHONG
Tôi thích tiếng vỡ của thủy tinh. Tôi không biết vì sao tiếng vỡ của thủy tinh lại mê hoặc tôi đến như vậy. Mê hoặc hơn cả những bản nhạc mà cha tôi thường nghe vào mỗi sáng.
VŨ THANH LỊCH
Giữa chiều, Nhiên gọi điện:
- Tao đón ở cổng cơ quan, mày đừng bận nữa. Bao nhiêu lâu rồi tao không nhìn thấy mặt mày đâu.
Viên ậm ừ rồi chặc lưỡi, bước xuống cầu thang, đi theo Nhiên.
NGUYỄN ĐẶNG MỪNG
Gái quê nghèo ấy người ta nghèo đến cả cách đặt tên. Anh Lô lên lớp đệ tam rồi, học ở tỉnh về, bà con vẫn gọi là anh Lọ, dù tên anh là Nguyễn Lô hẳn hoi, may ông anh làm ủy viên hộ tịch xã sửa lại cho.
NGUYỄN ĐẶNG THÙY TRANG
1.
Giá như có hơn một người nào đó biết về Chi như tôi hay màn đêm. Đêm thường bắt đầu sau một bài hát, chúng tôi sẽ hát cùng.
HOÀNG VIỆT HÙNG
1.
Sau hơn một tháng vật lộn trên vùng núi Tĩnh Giang, chúng tôi đã khoanh vùng được mỏ thiếc nhỏ Cam Túc. Điện báo về trung tâm.
TRƯƠNG ĐỨC THÀNH
Nhà hàng Tân Mỹ chỉ cách thành phố mươi dặm, nhưng hoàn toàn khác biệt với các nhà hàng chốn kinh thành.
NHỤY NGUYÊN
9 tháng 10 ngày. Thời gian không nhiều. Thời gian không đợi hắn.
Bận. Hắn nói phải đến Đồi Anh Hài. Đồi Phôi Thai. Đồi Linh Thai. Nghĩa trang Thai Nhi lớn nhất. Nhiều tên lắm. Nhưng mộ thì giống nhau.
NGUYỆT CHU
Cấn lọt thỏm trong đống rơm cạnh chuồng trâu. Mùi phân trâu nồng nồng ngai ngái khiến Cấn thấy dễ chịu.
NGUYỄN NGỌC LỢI
Ở đại đội tôi, trong mấy người lái xe kéo pháo, anh Cư là người tôi thương và quý mến nhất. Anh củ mỉ cù mì, lẳng lặng sống, lẳng lặng công việc.
TRẦN BĂNG KHUÊ
1.
Hoàn cảnh này, ngay tại nơi này. Có một lí do nào đó khiến tôi nghiễm nhiên cho rằng, chúng đã thực sự biến mất trong những ánh nhìn mà tôi từng cố tình lưu nhớ từ vài tầng kí ức được xếp lớp rất kĩ càng.
PHẠM THỊ PHONG LAN
Anh nhận được email của em khi vừa ở Huế về, rồi gọi điện ngay. Mà hình dung không nổi nên quyết định phải gặp.
PHẠM THỊ THÚY QUỲNH
Điều ta biết, ấy là con đường “có” thật.
- Jorge Luis Borges -
Tác giả tự giới thiệu:
Sinh 1952. Thuộc thế hệ đi từ trong bưng ra. 10 năm cầm viết. Những tác phẩm chính: "Quãng đời ấm áp" - tập truyện 1986. "Ngày của một đời” - tiểu thuyết 1989. "Con chó và vụ li hôn" - tập truyện 1990. "Chuyến đi của mẹ" - kịch bản phim 1990.
TB: Nếu truyện không vừa ý, BBT hãy ách lại. Tác giả không buồn đâu.
NGUYỄN THỊ LÊ NA
Lam gói ghém mấy bộ quần áo ném vào chiếc vali nhỏ, vơ vội vài tờ báo văn nghệ, nghĩ sao chị thần người ra một lúc, ngồi phịch xuống ghế.
TRẦN BẢO ĐỊNH
1.
Nắng trưa hầm hập, chị Hai ngồi đươn rế dưới bóng hàng cây trâm già. Những sợi tre thanh mảnh, qua bàn tay mềm mại của chị, chốc lát biến thành vật dùng làm bếp gia đình.