Phụ bản ngày khói hương

09:58 07/04/2015


TRẦN HẠ THÁP

Minh họa: Nhím

Chính bản

Ngày 21 tháng 9 năm Giáp Ngọ (tức 14/10/2014): giỗ kỵ ngài đầu tọa chi phái trong họ tộc. Từ đường: tại làng quê cách thành phố H hơn mười km quốc lộ 1A. Thời tiết: âm u, chưa mưa gió hay lụt bão như nhiều năm về trước.

Chú Dg: nam thành viên chi phái cư ngụ thành phố H, là hậu duệ đời thứ: 9. Lịch trình dự trù tham dự: khởi hành lúc 6 giờ sáng. Sau khi hoàn tất cuộc lễ tại làng quê, trở về thành phố H lúc 6 giờ chiều cùng ngày. Phương tiện di chuyển: xe honda 50 phân khối đời 86.

Trang bị cá nhân: bị rết đeo vai đựng áo mưa, ống sáo trúc và thẻ hương. Ngoài ra, còn có phần hiện kim, hiện vật đóng góp vào quỹ chung theo lệ định (1 lon gạo cộng 5 chục ngàn đồng mỗi một nam thành viên đã lập gia đình).

Sinh hoạt: thường niên chiếu lệ. Dạng thức: với nghi lễ cổ truyền đơn giản.

Ghi nhận đột xuất: một số phụ bản ngày có tính phức tạp, ngoài tiên liệu. Tất cả được đính kèm sau chính bản ngày, như nguyên thể phát sinh.

(hết phần chính bản).

*

Phụ bản (1):

Tờ giấy nhỏ để giữa bàn. Đồng bạc 1 trăm ngàn chồng lên, cả hai được dằn kỹ dưới một gói mì tôm chưa xé. Lấy lên đọc:

“…5 chục đóng giỗ kỵ 2 chục đổ xăng. Dư để phòng lỡ khi bể lốp dọc đường. Bì ni lông đựng gạo góp em để sẵn giỏ xe. Mắt kém đi sát lề chậm nghe. Rồi việc anh lo về, tối đèn pha chói mắt nguy hiểm lắm. Em ra chợ…”.

Soát lại “xăng còn đủ”. Xe nổ máy ra ngõ và 10 phút sau dừng ở một sạp lẻ vệ đường. Hết 5 chục cho 5 tấm vé xổ số. Tờ 1 trăm còn nửa. Người bán, kẻ mua cùng tươi cười đặt niềm tin vào hy vọng…

Cuộc “dồn phiếu” đầu ngày, cật lực cho thứ dẫu rất “mong manh nhưng không hề lưu manh”. Khả năng hiện thực quá nhỏ nhưng xổ “ra số” vẫn tốt hơn xổ ra “loại thiên đường không số”. Không hề ra mặt tiền, là loại thiên đường tít mù trong hẻm hóc, mệnh danh các “khu nhà ổ chuột”.

*

Phụ bản (2):

Anh H thủ từ phân bua:

- Con cháu lớn lên làm ăn khó khăn đi xa cả. Tình hình đóng góp thường niên chiếu lệ có mấy mô? Nghiệt vật giá ngày mỗi cao. Các chú coi lại mức đóng góp 5 chục ngàn, một lon gạo ra răng hè? Tui chộ ít ỏi quá. Đã đành “có chi cúng nấy” rồi “trước cúng sau cấp”. Nói lạy vong linh ngài, tiên tổ không đòi hỏi nhưng đó là phần lễ. Còn phần hội khi ngồi lại với nhau, năm có một lần chú bác con cháu… Đạm bạc quá!

Anh Thg xua tay:

- Phát sinh ra cái tiền bia bọt. Tụi mình lớn tuổi uống ăn chi mấy?

Tụi trẻ đời ni lợi dụng giỗ kỵ đông người, uống vô say sưa toàn nói năng ba láp tai nạn đầy đường. Vô  ích! Cứ rứa mà đóng. Trừ ai có hoàn cảnh  tật  nguyền, ốm đau bệnh hoạn, người ngoại tỉnh ở xa  không về, được miễn. Còn chú bác  tới con cháu,  hễ nam đã lập gia đình thì mức đó. Một lon gạo, 5  chục ngàn “nhứt nhứt đẳng phần” không thêm bớt.  Đừng có đẻ chuyện ra..!

“Bàn thượng” không còn ai nói thêm. Còn “bàn  hạ” cứ tiu nghỉu nhìn nhau. Sau rốt, có đứa đứng  lên:  

- Thưa các bác, các chú. Như rứa, hơi buồn là  giỗ kỵ thắp hương xong, ngồi mấy phút ai lo về nhà  nấy. Mặt trời chưa tắt, từ đường đã “hương tàn bàn  lạnh”. Đóng góp hơn tí cho ấm áp.  

Chú Dg ở phố về, tỏ vẻ hiểu ý “bàn hạ”:  

- Giỗ kỵ tức là “lễ hội gia tộc”. Đã có lễ cũng nên  lưu tâm phần hội. Giả như cuộc lễ nào cũng chỉ để  nhắc nhủ trách nhiệm, không có gì vui vẻ đính kèm  như… kiểu văn nghệ chẳng hạn, sẽ khô khan thiếu  nô nức trong tâm lý hướng về…  

Thưa các anh mình đã nghèo, nghèo thêm chút  có sao? Riêng tôi đồng ý kể từ năm tới gắng tăng  mức đóng góp  thêm 2 chục,  thành 7 chục ngàn.  Phần gạo mỗi người một lon không thêm bớt.  

… Chưa hết, buộc phải hứa ngay từ bây giờ. Ai  “rượu vào lời ra”, chi phái từ mặt. Thằng nào đại diện  chịu trách nhiệm? Hay lâm sự đổ vấy cho tập thể là  xong? Đừng học thói quỷ biện ngoài đời cứ “bãi lầy  tập thể” lũ cá sấu ngoạm mồi xong, lặn mất…  

“Bàn  hạ”  tất  nhiên  đồng  ý.  Đồng  ý  trong  tự  nguyện và chịu trách nhiệm rõ ràng. “Bàn thượng”  đưa mắt nhau. Họ  thành  công khi đã ngầm  chơi  một trận “bóng chuyền” mỹ mãn.  

Xưa nói “phép vua thua lệ làng” hoặc “quốc có  quốc pháp, gia  có gia quy”  song phải  chăng  còn  tùy  vào mỗi  khúc  quanh  lịch  sử, mỗi  đơn  vị  gia  đình, gia tộc? Dù bị đánh lẫn vào những tạp chất ô  trọc khác. Dù âm thầm nhưng không phải đã cáo  chung, đã tàn lụi thứ “giềng mối” mà tiên tổ đã lưu  truyền.  

Học “một sàng khôn” phải đi mất “ngày đàng”.  Nhưng  đi  quanh  xóm  “học  lóm  cha  ông”  lại  là  đường  dẫn  gần  nhất  tiếp  cận  những  gì  lung  linh  tồn tại đến ngày nay…  

*

Phụ bản (3):  

Các vị cao niên  lo  trần  thiết bông chuối ở nội  thất từ đường. Bọn thanh, tráng niên chừng mươi  người tụ hợp cùng 5 con chó đi săn.

Thằng cháu lớn nhất tuổi 41, giải trình lý do:

-  Trong  khi  chờ  lễ  cúng  2  giờ  chiều.  Xin  chú  bác  cho  tụi  cháu  về  lót  bụng  tại  nhà  xong  kiếm  ít  thịt  hiếm,  trước  về  cúng  tiên  tổ  sau  là  vui  vẻ  trong ngày giỗ  kỵ năm ni. Được nhiều  ít, đôi ba  con cũng là quý. Chồn cáo, chồn đèn thiếu chi… Chỉ  chồn hương hiếm, bộ dái thơm mùi “xạ hương” làm  thuốc to tiền lắm!

Các chú bác ở quê, khoan khoái gật gù. Họ gần  như đều trải qua một thời trẻ trai như thế. Còn nói:

- Tụi bây giỏi chi mấy! Thời trước giỗ kỵ ngài,  tụi  tao  săn  về  có  khi mô  dưới  chục  con  không?  Chồn mà “hon” thơm nói chi nữa.

Thằng cháu cười tươi:

- Chú bác mô cũng rành rồi. Chỉ chú ở “dưới phố” toàn nghe đi học, chưa biết thịt chồn “hon” cái chắc. Lần ni, cho chú biết!

Chú “dưới phố” chịu thua, không biết nói sao trước cái rộn ràng sôi nổi của hết thảy mọi người. Họ hào hứng. Họ vui lên thấy rõ…

Âm thanh sừng sực của 5 con chó bắt đầu vang lên từ đầu xóm.

Những con chó rất được cưng quý ở làng quê. Chúng không hề là chó kiểng, chó Phú quốc, chó Fox xù, hoặc chó béc-giê hung hãn.

Không bao giờ là loại ngồi xế hộp, tắm biển và tiêu chuẩn được ăn theo “cấp tướng”… Chó quê quen ăn nhiều rau như chủ chúng.

*

Phụ bản (4):

Chó ở làng quê đích thực là “kẻ bảo vệ” nương vườn, “nhà kiến tạo” thức ăn đặc sắc, “thành viên phụ” tích cực góp phần đáng nể vào lễ hội “tri ân tổ tiên chi phái”. Là loại luôn có mặt mọi hoàn cảnh, tuyệt đối đi theo chủ bất chấp đói rét, nắng mưa kể cả khi khổ chủ đã thành kẻ vong gia, vùi đời kinh tế “mới” với hai bàn tay trắng…

Đó là Vàng, Vện, là Ki là Mực, Vá... Những con chó thuần gốc Việt. Khỏi cần giải thích tại sao? khi mà đột ngột chúng bị đánh cướp, bị dã man bán vào lò thịt chó. Lòng dạ người dân quê quặn thắt. Họ nghẹn ngào ứa lệ.

Chúng được nuôi không phải để săn người, không ác hiểm như những con chó từ “lốt người thoái hóa”. Chúng là bạn tốt, là một loại “con em” các chủ nhân nơi ruộng đồng nghèo khổ…

Đoàn chó 5 con của tụi săn chồn hôm nay tự do lăng xăng, chẳng cần dây buộc cổ. Chúng được nuôi ở mỗi một nhà, nhưng khi đem tụ tập sân từ đường lại không hề cắn xé lẫn nhau. Sao thế nhỉ? Một cơ hội hết sức quý hiếm để chúng gặp mặt nhau chính thức.

Có cả thi đua dã ngoại hào hứng kèm với lợi ích đặc biệt (chúng rõ có phần cỗ tưởng thưởng cho riêng mình). Chó làng quê không chỉ làm vui lòng chủ nhân, mà còn nhiều hơn thế. Trưa vẫn âm u mây xám nhưng tất cả người và vật đều hí hửng lên đường…

Sự thật, ngày thường ở làng quê không ai nhốt chúng cả. Những con chó thuần Việt đích thực đều tự do từ một thuở ngàn xưa. Mới đây thôi, phong trào trộm chó chích thêm một vết thương tàn bạo vào cái tổ gần khô chất ngọt, tổ ong mật quê hương. Đừng nói gì người, đến chó cũng trở thành “tù nhân không tội nhân”!

Từ tư thế đang bảo vệ người, người lại quay ra bảo vệ chó. Ở đâu ra, từ khi nào, cho ai? mọc lên và thịnh hành loại “xực cẩu quán” vốn trước đây quá hiếm ở miền này. Điều cho thấy trong lịch sử, qua lát cắt của “bi kịch chó”, đạo lý chính tông do tiên tổ truyền lưu đã và đang thương tổn ngậm ngùi…

Chắc giờ nầy chúng đang vô cùng khoái hoạt chạy vòng quanh chân núi. Thật “hãnh diện giùm” cho 5 con chó thân thương… Khi mà trong hoàn cảnh “chưa hề đủ tư duy”, chúng thiếu đi cái khái niệm phản phúc, lưu manh.

Ồ, đừng xúc phạm chó! Con người thường đem chúng ra nhằm rủa xả lũ phản quốc buôn dân, loài cợt nhả tổ tiên, thứ khi sư diệt tổ: “đồ chó”, “đồ chó má”, là “chó lợn không bằng”…

*

Phụ bản (5):

4 giờ chiều. Nắng đột ngột lóe lên. Trận nồm đâu biết cuối thu..?

Trời không còn trừu tượng xám. Bị rết ống sáo trúc thẻ hương hồi ức. Một mình đi cho đến hết mặt trời…

Nổi nửa người qua sóng lau tràn cồn bãi. Cọt kẹt bụi tre kêu ngầu dấu mắt u hoang… Đã lột vỏ bỏ đi đâu hồn rắn? Gởi. Gởi. Gởi lá xuyên không thư bay lạc cõi dương trần, vô nhận…

Hỡi phiên chiều… Kẻ lang thang về đứng bến thật hư? Soi bàu nước váng vàng ngây bóng ngó. Bì bõm… Bì bõm nhái cõng rêu chắp tay ngày bụi cỏ. Đã bái biệt hoàng hôn!

Lạy gió…

*

Phụ bản (6):

Trường kỷ từ đường. Khói trầm hương. Chữ viết gốc rạ chen mặt sau tờ vàng mã:

“…nơi nào vắt áo bụi tre
nồm reo trong lá mây về cô thôn…
là nơi xin dựa gốc lòng
một tôi sáo thổi tay nâng điệu chiều
nơi nào miễu vắng tàn xiêu
đậu con cà cưỡng trong kêu cô hồn
là chân khi lội ngang đồng
sóng lau còn dợn xanh tràn qua xưa…
nơi nào lột vỏ nang khô
xỏ chân tiểu tử cười mơ dặm hài
là nơi tìm mãi không ai..?
thuở trâu lăn vũng thời ngây cánh cò
nơi nào cau rụng tàu mo
dựng con ngựa kéo lò cò quanh sân
là đây cúi trước mộ phần
ngậm nghe sâu cạn mẹ phân chuyện hò
nơi nào nhạt nắng như tơ
vương lan là khói che mờ là sương
lạnh rồi bếp cũ người nhen
còn nguyên đó đụn rơm buồn cõi con…”

(Hết phần phụ bản).

Vườn đá, thành nội Huế, 12 tháng 11/2014
T.H.T  
(SDB16/03-15)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN NHÃ TIÊN   

    Đường lên núi Quèn tràn ngập sắc hoa đào. Màu hồng phấn trên những cánh rừng đào phai lớp lớp mái xuôi nghiêng xoay tròn hình chóp, đẹp đến nỗi mây trắng dặt dìu bay qua đỉnh núi cũng ửng lên màu ráng hồng hư ảo quang chiếu cả bầu trời Tam Điệp.

  • LTS: Nhà thơ Mỹ Dạ chuyển cảm hứng sang viết kịch bản phim và truyện ngắn sau thời thiếu nữ đã đoạt giải nhất thơ Báo Văn Nghệ 1973 và tập thơ "Bài thơ không năm tháng" được giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam -1983. Tự khám phá khả năng trong thể loại mới đâu dễ thành công, riêng gì với nữ sĩ. Vậy mà Mỹ Dạ đã có truyện "đầu tay" sau khi ra đời 3 tập thơ. SH xin trân trọng giới thiệu ngõ ngách "tâm hồn khác" của nàng thơ mượn văn xuôi làm sáng tỏ mình.

  • TRU SA   

    Mấy ngày nay tôi luôn mất ngủ.
    Không hẳn là tôi thức trắng đêm bởi tôi vẫn dễ dàng tìm vào giấc ngủ.

  • ĐINH PHƯƠNG   

    Áp thấp nóng phía Tây không báo trước đổ vào bủa vây thành phố.

  • PHÙNG TẤN ĐÔNG  

    1. Bạn tôi nói nơi đó buồn lắm. Buồn nhất là những ngày mưa.

  • LÂM HẠ   

    Tôi có một mối giao tình kỳ lạ với Karen.

  • TRIỀU LA VỸ  

    Giừng có chửa!
    Bà giáo trề môi. Cả làng Vệ nhốn nháo.
    Tôi hớt hải chạy ra trại Nòn tìm Giừng.

  • TRƯƠNG THỊ THANH HIỀN

    Gã tự xưng là Quốc vương, phong ta làm Hoàng hậu, phong nàng ấy làm Hoàng phi. Gã từ sông La Vỹ đến đây, nàng ấy từ sông Thương nước chảy đôi dòng.

  • TRẦN BẢO ĐỊNH

    1.
    Hai Lượng tỉ mỉ chỉ cho Bảy Đặng cách bầu đất trộn tro trấu, bột xơ dừa để ươm hột măng cụt.

  • NHỤY NGUYÊN

    Đúng ra tôi chưa có ý định đi thăm thằng Xuân. Lần vừa rồi gọi điện vào cơ quan, nó réo: “Khổ quá. Đã bảo mày chỉ việc vào đây. Vào chơi chán rồi tao thuê riêng cho chiếc taxi chở về thấu cái am của mày”.

  • LÊ VI THỦY   

    Hiên lấy chồng. Ai cũng ngơ ngác ngạc nhiên. Con bé mới mười sáu tuổi. Cái tuổi vô tư hồn nhiên, cái tuổi cũng chưa đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Vậy mà lấy chồng! 

  • PHẠM NGỌC TÚY  

    1.
    Tôi sẽ không kể lại câu chuyện này nếu tôi không gặp lại Hồng. Câu chuyện ám tôi suốt mấy đêm trường, những nhân vật sống động tuồng như cùng một lúc trở về trong giấc mơ tôi.

  • NGUYỄN HOÀNG ANH THƯ    

    Phố hôm nay ngập sâu sau một cơn mưa kéo dài từ tối hôm qua đến trưa nay, cô đang nhìn thấy điều ấy trên tivi. Cô hơi tiếc, giá như cô ra đó muộn hơn, dù sao thì đi trong mưa hay bơi trong mưa vẫn thích hơn là chạy trên chảo lửa nóng. Hà Nội tuần trước hơn 50 độ, hai chân cô sắp cháy.

  • DIỆU PHÚC   

    Tôi lại vào viện. Sốt không rõ nguyên nhân. Lần nào cũng thế, và tôi cũng đã quen dần với việc vài ba tháng lại phải nhập viện một lần.

  • TRẦN BĂNG KHUÊ   

    1.
    Những đợt mưa xối xả từ tháng âm hồn vẫn còn rảnh rỗi kéo dài từng hơi thở tận đến cuối mùa thu vàng trong rừng cây vô sinh cô độc.

  • NGUYỄN VĂN UÔNG  

    Ông Bửu nằm gác chân lên vành chiếc chõng tre kê trước hiên nhà, mắt lim dim ngái ngủ giấc trưa. Chiều đã xế bóng. Gió nồm lao xao hàng tre trước ngõ, phớt nhẹ lên vầng trán lấm tấm mồ hôi.

  • LTS: Phạm Thị Ngọc Liên xuất hiện cuối những năm tám mươi. Tác phẩm đã in. - Vầng trăng chỉ một mình (Tập thơ - NXB Trẻ - 1969); - Biển đã mất (Tập thơ NXB Hội Nhà Văn -1990) và hai năm 1989-1990 đã đạt giải thưởng Truyện ngắn và thơ của Tạp chí Văn nghệ quân đội.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Nhiều năm sau này Vũ nhớ về Giao khi hai người ngồi bên nhau trên ban công lồng lộng gió trăng. Ban công nhìn ra sân với hàng cau già nhuốm tóc trăng sáng bạc, là những hình ảnh cuối cùng của một miền quê sắp bị đô thị hóa.

  • NGUYỄN THỊ DUYÊN SANH

    Cho đến khi chiếc xe buýt chở Dần khuất hẳn cuối ngã tư, Thuyền mới lững thững quay về. Đi qua trước quán bar, cô thấy me Tím cũng xách túi chui vào ô tô cùng với tiếng máy xe khởi động êm ru. 

  • ĐINH NGỌC TÂM   

    Đó không phải là một phòng trọ quá chật chội nhưng cũ rỉ cũ ri. Nước đọng rất lâu trong nhà tắm trước khi thoát hết.