Phong Lê và cụm công trình được giải thưởng nhà nước về khoa học năm 2005

09:44 26/11/2008
BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

GS. Phong Lê sinh ra và lớn lên ở Hà Tĩnh nhưng lại lập nghiệp và trưởng thành ở Hà Nội. Như ông từng nói trong Lời đầu cuốn Chân dung - Ký - Tiểu luận Viết từ Hà Nội (Nxb. Lao động, H, 2003): Tôi mang ơn 45 năm quê ở Hà Nội, cùng 18 năm quê sinh Hà Tĩnh. Cả quê sinh và quê ở đã đưa tôi vào nghề. Đó là nghề viết”. Sau khi tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, GS. Phong Lê về công tác ở Viện Văn học và có bài đầu tiên về Nam Cao in trên Tập san Nghiên cứu văn học năm 1960. Hơn ai hết, với GS. Phong Lê, Viện Văn học là môi trường thuận lợi và tạo điều kiện tốt nhất cho ông làm việc và cống hiến. Cho đến nay, GS. Phong Lê đã là tác giả của 15 cuốn sách in riêng, và là Chủ biên trên 20 công trình tập thể về chuyên ngành văn học Việt Nam hiện đại.

Đọc, viết và nói- đó là ba động tác cơ bản trong hành trình nghề nghiệp của Phong Lê trong hơn 40 năm qua.
Vào đầu thiên niên kỷ mới, các cuốn sách đứng tên Phong Lê liên tiếp ra mắt bạn đọc, trong đó có 3 cuốn thuộc cụm công trình được nhận Giải thưởng Nhà nước đã nêu trên. Đây là ba công trình chủ yếu được viết từ thập niên 90 thế kỷ XX, tập trung khảo sát văn học Việt Nam hiện đại - văn học Việt Nam thế kỷ XX, trên 2 bình diện: - một số tác gia văn chương - học thuật tiêu biểu, và một số khu vực quan trọng làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam. Cả ba công trình có sự gắn nối, xuyên suốt, tạo nên một tổng thể làm nổi bật những vấn đề về lịch sử và lý luận, gắn với thực tiễn văn học phong phú và sôi động trong hơn một thế kỷ qua. Ba công trình ghi nhận thành tựu và đóng góp quan trọng của tác giả đối với sự nghiệp nghiên cứu văn học nói riêng, và đời sống văn chương- học thuật nói chung. Đồng thời với chất lượng và hiệu quả của nó, ba công trình cũng góp phần dẫn tới những thay đổi đáng kể trong nhận thức và tư duy khoa học của chuyên ngành nghiên cứu văn học Việt hiện đại cũng như của đời sống văn học từ sau Đổi mới.

Với công trình Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu - đó là một tổng hợp những gì đã được tác giả thâu nhận, tích lũy trong quá trình nghiên cứu hơn bốn mươi năm, vừa là kết quả của sự nhận thức lại trên tinh thần đổi mới từ sau 1986, để có thể tự tin và quả cảm hơn trong tiếp cận chân lý và đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đặt ra trong đời sống văn chương và học thuật dân tộc.
Công trình gồm bốn phần:
- Phần một: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - hành trình thơ văn, hành trình dân tộc.
- Phần hai: Tác gia lý luận, phê bình, học thuật.
- Phần ba: Tác gia văn xuôi.
- Phần bốn: Cao - người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực.

Từ nhận thức về hai yêu cầu lớn đưa tới hai thành tựu lớn của văn học Việt Nam thế kỷ XX là cách mạng hóa và hiện đại hóa, cuốn sách đã dành Phần một, để đi sâu vào sự nghiệp văn chương của Chủ tịch Hồ Chí Minh như là người khai sáng và là đỉnh cao các giá trị văn học trước yêu cầu cách mạng hóa (và cả hiện đại hóa); và dành Phần cuối cho sự nghiệp sáng tác của Nam Cao- người đã đưa lên đỉnh cao và kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực trước yêu cầu hiện đại hóa.
Hai phần còn lại gồm 6 tác gia lý luận phê bình và học thuật: Đặng Thai Mai, Trường Chinh, Hải Triều, Hoài Thanh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Khắc Viện và 9 tác gia văn xuôi: Hoàng Ngọc Phách, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Thi, Võ Quảng, theo quan niệm của tác giả, là những người mang được dấu ấn riêng và đậm nét trong nền văn học Việt Nam hiện đại, ở tư cách người khai sáng hoặc đứng ở vị trí hàng đầu, đúng với mục tiêu của công trình là khẳng định các giá trị văn chương bền vững, có sức sống với thời gian và người đọc.

Có thể nói, công trình Văn học Việt Nam hiện đại- những chân dung tiêu biểu được viết trên tinh thần xác nhận lại, và mở rộng thêm các giá trị của di sản; điều chỉnh lại những nhận định trước đây do hoàn cảnh lịch sử nên không tránh khỏi có mặt cứng nhắc và khe khắt; hướng tới một cách nhìn khách quan, công bằng hơn với các giá trị văn chương; góp phần làm cho bức tranh văn học dân tộc trở nên phong phú, đầy đặn và có thêm sức hấp dẫn.
Công trình Một số gương mặt văn chương- học thuật Việt Nam hiện đại tập hợp 54 chân dung nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học Việt Nam hiện đại như một cách bổ sung cho công trình Văn học Việt Nam hiện đại- những chân dung tiêu biểu, trong đó, ngoài các tác giả quen thuộc, cần chú ý thêm sự góp mặt một số gương mặt mới- như Trương Vĩnh Ký- “cuốn sổ bình sanh công với tội”, Ngọc Giao- người khỏi bị lãng quên vào cuối thế kỷ, Đinh Gia Trinh trong đời sống văn chương học thuật hồi 1941-1945.

Phần lớn các tiểu luận trong công trình được viết trong thời kỳ đổi mới. Vào thời điểm đó, tác giả công trình ở cương vị Viện trưởng Viện Văn học. Với ý thức trách nhiệm của một người lãnh đạo cơ quan nghiên cứu khoa học và ý thức của một chuyên gia đầu ngành, GS. Phong Lê đã tham gia tổ chức và chủ trì trên hai mươi Hội thảo khoa học theo hướng nhận thức lại, mở rộng và khai phá sâu hơn những vấn đề lý luận và lịch sử đặt ra cho văn học dân tộc trên con đường hướng tới mục tiêu cách mạng và hiện đại.
Các báo cáo Đề dẫn hay tham luận khoa học được tập hợp trong công trình này đã ghi nhận nhiệt huyết, nỗ lực và những suy nghĩ, nhận thức mới của tác giả nhằm tiếp cận và khám phá sâu hơn vào đối tượng nghiên cứu, với ý thức đổi mới tư duy khoa học, cập nhật với những vấn đề thời sự của thực tiễn văn học. Trong quá trình phát hiện hoặc đánh giá lại các giá trị văn học dưới ánh sáng đổi mới, tác giả công trình không lúc nào rời mục tiêu nhe nhắm là soi nhìn nó dưới hai yêu cầu: cách mạng và hiện đại; và đặt nó trong bối cảnh sự vận động và biến chuyển theo gia tốc lịch sử của sự phát triển, nó là dấu ấn đặc trưng của đời sống dân tộc trong thế kỷ XX.

Công trình Văn học Việt Nam hiện đại- lịch sử và lý luận là công trình tổng hợp, chọn lọc từ 7 công trình được xuất bản từ 1980 đến 1997. Bảy công trình được tiến hành trong ngót 20 năm nhằm bao quát, trên một diện rộng, những khu vực quan trọng làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Đó là:
- Văn xuôi Việt trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa.
- Văn học các dân tộc thiểu số.
- Văn học về đề tài công nhân.
- Văn học Việt kháng chiến chống Pháp.
- Văn học Việt chống Mỹ cứu nước.
- Văn học và hiện thực.
- Văn học trên hành trình của thế kỷ XX.
Điều dễ nhận ở cụm công trình này, về phương diện đồng đại, đó là quá trình Phong Lê mở rộng đối tượng khảo sát; và về phương diện lịch đại, đó là sự bao quát toàn cảnh văn học Việt Nam trong chuyển động từ trung đại sang hiện đại, và trong bối cảnh giao lưu từ phương Đông chuyển sang phương Tây.

Nhìn chung 3 công trình của GS. Phong Lê toát lên tinh thần đổi mới tư duy nghiên cứu, với nhu cầu nhận thức lại, đánh giá lại một cách công bằng, khoa học những giá trị di sản văn học quá khứ, trong đó có một số hiện tượng tác gia, tác phẩm lâu nay còn bị oan sai hoặc khuất lấp. Với hai chặng đường nghiên cứu trước và sau Đổi mới, GS. Phong Lê không chỉ là người chứng kiến nửa thế kỷ của quá trình văn học mà còn là người góp phần tham gia vào quá trình đó, với nhiệt tâm và năng lực của mình. Là một chuyên gia văn học Việt hiện đại, bằng những trang viết nhiều tâm huyết và chính kiến, GS. Phong Lê, qua 3 công trình, đã chứng tỏ là một người đổi mới nhưng biết tự cân bằng, tự điều chỉnh và luôn trung thực với chính mình. Những công trình của GS. Phong Lê đã có tác động đáng kể trong lĩnh vực nghiên cứu, lý luận, phê bình cũng như trong đời sống văn học đương đại. Với cái nhìn “động” và một nền tảng kiến thức luôn được mở rộng, với tâm huyết và sức viết dồi dào, giàu chất văn và có phong cách riêng - đó là những gì có thể rút ra và khẳng định trong hành trình nghề nghiệp của Phong Lê.

Ba công trình Văn học Việt Nam hiện đại- những chân dung tiêu biểu, Một số gương mặt văn chương- học thuật Việt Nam hiện đại, Văn học Việt Nam hiện đại- lịch sử và lý luận là kết quả chọn lọc sau hơn 40 năm nghiên cứu, nhằm hướng tới một phác thảo về văn học Việt Nam thế kỷ XX. Việc khảo sát đối tượng trên bình diện thể loại, qua các giai đoạn lịch sử, gắn với sự nhận diện các gương mặt tiêu biểu cho mỗi khu vực, mỗi thời kỳ; sự miêu tả lịch sử về đối tượng gắn với việc đề xuất các vấn đề lý luận là định hướng khoa học kiên trì và nhất quán của tác giả, gắn với những hoạt động khoa học của Viện Văn học và Tạp chí Văn học trong hơn 40 năm qua. Điều đáng nói ở đây, công cuộc Đổi mới của đất nước là cái mốc quan trọng giúp người nghiên cứu vượt ra khỏi giới hạn sau 1945 mà đi ngược lên giai đoạn “giao thời” đầu thế kỷ XX để có cái nhìn xuyên suốt diện mạo văn học Việt Nam hiện đại, đồng thời là quá trình nhận thức lại và tự điều chỉnh trên tinh thần đối thoại với những nhận định trước đây do hoàn cảnh lịch sử nên không khỏi có phần phiến diện, cứng nhắc, với những khu vực văn học sử còn bỏ ngỏ hoặc chưa được nhìn nhận và đánh giá thỏa đáng, làm cho di sản văn học dân tộc trở nên giàu có và hấp dẫn hơn. Là người hòa nhập nhanh vào quá trình đổi mới, GS. Phong Lê đã có hoàn cảnh bộc lộ những ý kiến cá nhân, những suy nghĩ, tìm tòi có giá trị khoa học, góp phần khởi động tinh thần Đổi mới và thúc đẩy công tác nghiên cứu, giảng dạy văn học nói riêng và đời sống văn học đương đại nói chung.

 Cả ba công trình của GS. Phong Lê đều được sử dụng như là những cuốn sách công cụ, những tài liệu tham khảo bổ ích và cần thiết cho việc giảng dạy, nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại ở các bậc cao đẳng, đại học; cho các luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ về lý luận và lịch sử văn học Việt Nam, và rộng ra đối với những ai quan tâm đến lịch sử văn học Việt Nam, đặc biệt văn học Việt Nam thế kỷ XX. Đó là ba công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc, có tác động vào đời sống văn học, cả sáng tác và phê bình, vừa gợi tranh luận, vừa thúc đẩy sự phát triển trên tinh thần đổi mới.

Hơn bốn mươi năm nghiên cứu và tham gia giảng dạy ở bậc Đại học và Sau Đại học, GS. Phong Lê đã tạo được uy tín trong giới nghiên cứu- học thuật, và trở thành một trong những chuyên gia đầu ngành về văn học Việt hiện đại. Đối với GS. Phong Lê, viết là một niềm say mê, hơn nữa, viết như là lẽ tồn tại, viết như là sống. Dễ nhận thấy, ông vẫn luôn hiện diện trong đời sống văn học, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học hôm nay. Trong quá trình nghiên cứu và viết, GS. Phong Lê luôn luôn có nhu cầu nhận rõ nhận mới những gì đã tích lũy, cũng như những gì còn phải tiếp cận tiếp tục khai phá; và đó là định hướng lớn chi phối hành trình nghề nghiệp đầy nhọc nhằn, thử thách mà cũng đầy mê hoặc và quyến rũ đối với ông.

Với những chân dung và tiểu luận văn học về Tô Hoài, Võ Quảng, Hoàng Trung Thông, Ma Văn Kháng..., và Nguyễn Du mà Phong Lê viết khá dồn dập trong năm 2005 vừa qua, và với công trình Về văn học Việt Nam hiện đại- nghĩ tiếp, 400 trang, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội vừa mới ấn hành- một chặng đường mới trong nghiên cứu- phê bình văn học lại đang mở ra trước ông.
                                      B.T

(nguồn: TCSH số 205 - 03 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NguyỄn Thu TrangNghệ thuật ẩm thực của người Việt đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt . Bàn về ẩm thực và những gì liên quan thì quá rộng, thế nên ở đây chúng tôi chỉ mạn phép bàn đến một khía cạnh nhỏ của nó mà thôi.

  • NGUYỄN NGỌC MINHNằm trong nội dung một đề tài nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn của Tỉnh về: khảo sát thực trạng, đề xuất chủ trương giải pháp, xây dựng đội ngũ công nhân- nông dân- trí thức, tăng cường khối liên minh công- nông- trí thức ở TT- Huế.

  • LẠI NGUYÊN ÂNTrước khi vào đề, tôi phải nói ngay rằng trong thực chất, người đã thúc đẩy tôi viết bài này là nhà Việt học người Nga Anatoly Sokolof. Tôi nhớ là anh đã ít nhất một lần nêu với tôi: hiện tượng mà người ta đang gọi chung là “thơ Hồ Xuân Hương” nên được tiếp cận từ góc độ “mặt nạ tác giả”.

  • Ngôn ngữ văn học luôn mang dấu ấn thời đại lịch sử của nó. Đồng thời, thông qua ngôn ngữ tác phẩm người đọc có thể đánh giá được khả năng sáng tạo và phong cách sáng tác của người nghệ sĩ. Văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là sau Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá trên mọi phương diện, trong đó có ngôn ngữ. Viết về đề tài lịch sử trong bối cảnh mới, các nhà văn sau 1975 không chịu núp mình dưới lớp vỏ ngôn ngữ cũ kĩ, khuôn sáo như trước.

  • Nếu có thể nói gì về tình trạng ngày càng thưa vắng các tiểu thuyết đọc được hôm nay, hay nói một cách chính xác hơn là sự vắng mặt của tiểu thuyết hay trong vài thập kỷ qua, theo tôi trước hết đó là vấn đề tâm thể thời đại

  • ĐINH XUÂN LÂM      (Hướng về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội)Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh sinh ngày 19 tháng 07 năm Quý Tỵ, niên hiệu Minh Mạng 14 (1833) tại xã Chân Mỹ, tổng Từ Vinh, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).

  • HOÀNG TẤT THẮNG1. Khái quát về địa danh học.

  • NGUYỄN HOÀNG ĐỨCKhông có một xã hội nào sống và phát triển được nếu không cậy trông vào khả năng phê bình của chính mình. Nói một cách thật dễ hiểu, như người Pháp khẳng nhận: "Người ta dựa trên những gì chống lại mình".

  • PHONG LÊ      (Tiếp theo Sông Hương số 250 tháng 12-2009 và hết) Sau chuyển đổi từ sự chia tách, phân cách đến hội nhập, cộng sinh, là một chuyển đổi khác, cũng không kém tầm vóc: đó là từ cộng đồng sang cá nhân; với một quan niệm mới: cá nhân mạnh thì cộng đồng mới mạnh; cá nhân được khẳng định thì sự khẳng định vai trò cộng đồng mới được bảo đảm.

  • ĐÀO THÁI TÔNNhư chúng tôi đã có lời thưa từ bài báo trước, trong Thơ quốc âm Nguyễn Du (Nxb Giáo dục, H, 1996), thay vì việc xem "bản Kinh" của Truyện Kiều là bản sách in bởi vua Tự Đức, Nguyễn Thạch Giang đã viết đó chỉ là những bản chép tay bởi các quan văn trong triều. Điều này là rất đúng.

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện giờ báo chí chuyên về văn chương ở ta đã phong phú và đa dạng. Riêng Hội Nhà văn đã có các báo Văn nghệ, Văn nghệ dân tộc và miền núi, Văn nghệ Tre, và các tạp chí Tác phẩm mới, Văn học nước ngoài.

  • LÊ ĐẠT     Cầm tên em đi tìm

  • VŨ NGỌC KHÁNH        (Trích tham luận: “Thử bàn về minh triết”)

  • LTS: Thế giới đang xuất hiện trào lưu phục hưng minh triết sau một thời gian dài chối bỏ. Ở Việt cũng đã hình thành Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt . Tiếp theo cuộc Hội thảo lần thứ I tại Hà Nội “Minh triết - giá trị nhân loại đang phục hưng”, cuối tháng 11.2009 tại Huế, Trung tâm đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Minh triết Việt trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt”.

  • Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...

  • Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.  

  • TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.

  • LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.

  • PHONG LÊĐó là: 1. Từ sự phân cách, chia đôi của hai thế giới - địch và ta, chuyển sang hội nhập, cộng sinh, có nghĩa là nhân rộng hơn các tiềm năng, cũng đồng thời phải biết cách ngăn ngừa, hoặc chung sống với các hiểm họa. 2. Từ cộng đồng chuyển sang cá nhân, cá nhân trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển, nhưng cá nhân cũng sẵn sàng nổi loạn cho các ước vọng thoát ra khỏi các chuẩn mực của cộng đồng. Và 3. Từ phong bế (ở các cấp độ khác nhau) đến sự mở rộng giao lưu, hội nhập với khu vực và quốc tế, với sự lưu tâm hoặc cảnh báo: trong đi tắt, đón đầu mà không được đứt gẫy với lịch sử.

  • ĐỖ HẢI NINH(Nhân đọc tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Nxb Phụ Nữ, H, 2009; tác phẩm nhận giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2009)