Phiêu lưu với sự viết

09:53 10/02/2023

HOÀNG THỤY ANH

Là nhà văn, bạn mang trong mình “căn bệnh viết”, gánh vác sứ mệnh kể chuyện. Nghiệp vận như thế, buộc bạn lao vào đời sống, tiệm cận đủ các góc độ, kể chuyện mình, chuyện người, chuyện thế cuộc.

Ảnh: internet

Bạn có trong tay căn cước tự do riêng biệt của miền sáng tạo, nhưng lựa chọn phương pháp nào để kích hoạt tính ẩn mật của ngôn ngữ, sức hấp dẫn của câu chuyện, vẫy gọi bạn đọc, luôn là bài toán khó, bởi sự “phì đại” của hiện thực bao giờ cũng đòi hỏi sự “phì đại” của kỹ thuật viết.

1. Hiệu ứng của sự “phì đại”

Sự tác động, chi phối của cuộc cách mạng 4.0, kinh tế, văn hóa, tôn giáo, sắc tộc, ô nhiễm môi trường, bệnh tật,… khiến đời sống xã hội nói chung và lối sống nói riêng đều bị biến dạng, phồn tạp, kéo theo đó là sự soán ngôi của các hệ giá trị mới, trong khi, bản thân các hệ giá trị mới chưa được kiểm chứng, còn nhiều hoài nghi, bất tín nhận thức. Bạn đừng lo ngại, hãy chủ động sống chung với nó, “yêu” nó, “chơi” với nó theo cách của bạn. Đó là lúc bạn thu về lợi thế cho mình. Văn chương vốn dĩ đã cho bạn quyền lực mở rộng hiện thực. Ở đây, sự trương nở của hiện thực lại càng cho bạn thêm nhiều chất liệu sáng tác, nguồn tư liệu, đề tài, cảm hứng để viết. Làn sóng toàn cầu hóa đã phá vỡ những rào cản, giới hạn, biến thế giới thành một sân chơi bình đẳng, sống động, nhưng nó cũng liên tục tạo ra những thách thức. Nó bắt buộc bạn luôn ở trong tâm thế dấn thân, hội nhập để bắt nhịp với thời đại và nỗ lực duy trì cảm hứng sáng tác, “cao tay ấn” về kỹ thuật, đổi mới lối viết, đa dạng đề tài. Vì thế, cuộc sống “phì đại” vừa là chất liệu tuyệt vời cho bạn nhưng cũng vừa là thước đo bản lĩnh, thái độ của bạn.

Nhà văn Milan Kundera nhấn mạnh trong Đời nhẹ khôn kham: “Khi hệ lụy càng nặng thì đời sống càng bị kéo gần đến mặt đất và chúng ta càng sống thật hơn”. Hệ lụy đời sống cho bạn cách sống thật. Sống thật mới viết thật. Những cảm xúc, cảm hứng xuất phát từ trái tim nóng hổi, tha thiết với người, rung động với đời mới đạt đến hiệu lực của nghệ thuật quyến rũ, nghệ thuật cấp cao. Vì chỉ có bạn mới biết ràng buộc mình trong cuộc đày ải vô cùng của trí tuệ, biết thiết tạo vân gỗ riêng, kích thích sự đọc, năng lực tưởng tượng của độc giả. Bạn đứng trong/ ngoài/ trên/ dưới hiện thực hay lùi sâu vào miền tâm linh, huyền ảo,… hẳn trong lòng bạn luôn tràn ngập niềm ham muốn tạo ra những không gian đối thoại tương tác đa chiều. Văn chương không phải là phương thuốc diệu kì để giải quyết hay chấm dứt những xô bồ, hỗn độn của thế giới, nhưng văn chương sẽ mải miết cuốn bạn vào hành trình kiếm tìm giá trị cuộc đời.

Tại sao Nguyễn Bình Phương được đánh giá là một trong số ít cây bút văn xuôi xuất sắc hiện nay và là nhà văn “ngồi riêng một cõi”? Đọc tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Bình Phương, bạn sẽ thấy ông thường viết trong tâm thế vừa kéo hệ lụy của đời sống sát mặt đất vừa xoay vần trong cõi đời lẩn quẩn bằng phong cách mới mẻ, độc đáo, vừa kì bí, huyền ảo vừa sinh động, hiện thực, khiến cuộc tranh biện giữa cái tốt với cái xấu, cái thiện với cái ác diễn ra liên tục, không có điểm dừng. Lối viết của Trần Nhã Thụy lại khác với Nguyễn Bình Phương. Anh hình dung cuộc đời như cái hộp diêm 6 mặt kín bưng, khi mở hộp diêm ra, ta lại có thêm mặt đáy, đó chính là bề sâu của bóng tối và của bản ngã. Nếu không nhìn thấy mặt đáy ấy, con người khó có thể nhận ra cái tôi nguyên gốc, một cái tôi không sao chép, không lặp lại chính mình. Nghệ thuật viết truyện của anh là giải mã cảm giác, phản tư bằng yếu tố ngạc nhiên. Các nhân vật trong truyện thường là “những kẻ câu đêm”, họ thả mình trong bóng tối của cuộc đời, rồi từ bóng tối mã hóa những khả thể đầy phi lý, tính phức hợp/đa trị của ánh sáng, nhận ra những hoen rỉ, những oái ăm đang ăn mòn chính họ và đời sống. Kiểu ứng xử văn chương của Nguyễn Bình Phương và Trần Nhã Thụy đã cho thấy ý thức phát huy cá tính sáng tạo của hai nhà văn trước hiện thực đa phương đa tầng, phi lí, xô bồ, chông chênh.

Hiện thực cuộc sống là chất liệu sáng tạo, là khởi nguồn của cảm hứng. Nhưng hiện thực khi băng qua trái tim của thi sĩ, hiện thực ấy đã bị hệ luỵ, quy chiếu, ảnh hưởng bởi những rung chấn phức tạp, bí ẩn của thế giới nội cảm của anh ta. Lúc này, thi sĩ không chỉ là người mở rộng hiện thực mà còn phủ lên hiện thực những mảng khối, sắc màu đa dạng. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều, ông thường dùng hiện thực của tinh thần để soi chiếu hiện thực đời sống. Quán chiếu hiện thực của tinh thần trong nhiều thái cực như dòng hồi tưởng, ký ức ấu thơ, giấc mơ, cõi âm,... ông dựng nên “hiện thực thậm phồn”: một thế giới phức tạp, mâu thuẫn, xung đột gay gắt, một thế giới bao gồm cả thực và ảo. Đó là cách ông “chống lại sự giống người khác”, chống trả những oái ăm, tàn khốc của hiện thực và giúp con người vươn đến những điều tốt đẹp. Đúng như Nguyễn Việt Chiến đã nhận xét, ông là thi sĩ có “một giọng thơ lực lưỡng trên cánh đồng chữ nghĩa”.

Trong tất cả lĩnh vực, không lĩnh vực nào có thể thay thế sứ mệnh của văn chương. Thế giới có xoay vần, biến đổi ra sao thì văn chương vẫn mãi là nguồn sống, là giá trị tinh thần to lớn của nhân loại. Văn chương không thể toàn quyền hủy diệt cái xấu, cái ác, nhưng văn chương có quyền dự phần làm thanh sạch cuộc sống, giúp con người biết khước từ cái ác, cái xấu, sống với lòng bác ái, nhân văn. Do đó, việc bồi đắp sự tỉnh giác, niềm tin và lòng can đảm cho con người trước mặt nạ của đời sống, đó là trách nhiệm và sứ mệnh của bạn. Bạn viết về cái xấu, cái ác không có nghĩa văn bạn đen tối, mà đó là cách bạn dũng cảm phản ứng sự bất toàn của đời sống và truy tìm căn nguyên của nó. Chúng ta thường thấy sự hiện hữu của cái ác, nỗi khổ đau, chết chóc trong tác phẩm của nhà văn Diêm Liên Khoa, nhưng đọc các tác phẩm của ông, chúng ta hoàn toàn bị mê hoặc, bởi chúng ta như đang đối diện với ám ảnh bản thể, nỗi đau của con người và những vấn đề nhức nhối, khủng khiếp của nhân loại. Ông khước từ hiện thực bề nổi, chọn miền sâu thẳm của tâm linh, của tưởng tượng để phản tư/tỉnh hiện thực, tạo nên “hiện thực thậm phồn” và trưng ra những góc khuất, bóng tối của xã hội Trung Quốc đương đại. Tạ Duy Anh cũng là nhà văn viết nhiều viết hay về cái ác, cái xấu, thông qua cái ác, cái xấu, ông đụng chạm đến những vấn đề gai góc, nổi cộm của con người và xã hội để khai thác kiệt cùng bản chất của con người và vấn đề của xã hội, từ đó, thức tỉnh con người trước cõi thế nhá nhem, để “trở về Nguyên Bản, trở về là Một”.

Như vậy, viết trong bầu không khí toàn cầu hóa, trong sự bùng nổ, thống trị của khoa học công nghệ, trong sự đổi thay đầy phức tạp của thế giới, bạn phải đối diện, đối đầu để tìm ra mối liên đới giữa hiện thực và sáng tạo. Vì sự “phì đại”, đổi thay của hiện thực luôn luôn là cú hích để bạn chuyển biến, “phì đại” tư duy nghệ thuật, “phiêu lưu” với sự viết của chính mình.

2. Sức mạnh của sáng tạo

Đối diện với văn bản, nhà văn được nhìn ngắm bản ngã, đối thoại với cái tôi ở bên kia chiếc gương ở mức độ cao nhất, viết trong sự mở lòng, trào sôi và kết nối. Đối diện với tác phẩm, bạn đọc như được lắng nghe tiếng nói của chính mình, cảm nhận rõ hơn về tình yêu, thân phận và cuộc sống. Hiệu ứng liên kết này tự thân đã mặc định sứ mệnh của nhà văn: người mang vác cây-thánh-giá-tình-yêu, ươm mầm cho những điều tốt đẹp. Do vậy, bạn phải viết bằng cả trái tim, bằng cả cuộc đời của mình, kể cả viết trong sự khắc nghiệt, chật hẹp, vì hồi-chuông-lòng của bạn luôn là món quà cao quý, vô giá đối với người đọc. Sự hi sinh của bạn sẽ bù đắp bằng sự trồi lên của tác phẩm. “Căn bệnh viết” buộc bạn lao động nghiêm túc, lao tâm khổ tứ để có tác phẩm chất lượng, nhưng nó cũng lắm lúc đẩy bạn vào tình thế tréo ngoe, oái oăm, thử thách niềm đam mê và nhiệt huyết sáng tạo của bạn. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, sau một năm xuất bản, mặc dù đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, khen chê có cả và số lượng in hơn 5.000 bản, nhưng hầu như không có dư luận gì về cuốn tiểu thuyết này. Ở nước ngoài thì ngược lại, nóng rẫy, được dịch gần 20 thứ tiếng. Mãi đến đầu thế kỉ XXI, cụ thể là năm 2003, cuốn tiểu thuyết mới được tái bản và bắt đầu xôm trò. Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư bị phê phán kiểm điểm. Sau đó, Cánh đồng bất tận được dịch sang nhiều thứ tiếng và đoạt nhiều giải thưởng ở nước ngoài. Hoặc như Vụ án của Franz Kafka, Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi của Gabriel Garcia Márquez, Lolita của Vladimir Nabokov, đều có số phận đặc biệt, lận đận. Tác gia Proust đã từng nói: “Rồi người đời sẽ đọc tôi. Nhân loại sẽ đọc tôi [...] Stendhal phải mất 100 năm mới được người đời biết đến. Marcel Proust chỉ cần 50 năm thôi”. Dẫn chứng trên cho thấy, những rào cản, áp lực không hề làm suy giảm bản lĩnh của nhà văn trên hành trình sáng tạo dằng dặc. Càng áp lực, sức sáng tạo càng mãnh liệt. Bạn hãy lấy chông gai làm liều thuốc hoàn thiện, trau chuốt ngòi bút, viết như con tằm rút ruột nhả tơ, vì chỉ có sự viết mới giúp bạn vượt lên mọi trở ngại, cho bạn những trang viết chất lượng, tình cảm đẹp và nghệ thuật sống. Trải qua nghiệt ngã thời gian, bạn sẽ nhận được bù đắp xứng đáng, tác phẩm của bạn được người đọc ghi nhận và tỏa sáng.

Nhà văn Wolfgang Kubin đã từng phát biểu, là một nhà văn chân chính, anh đừng bao giờ quan tâm đến thị trường. Dưới sự tác động của đời sống công nghiệp, văn chương trở thành một thứ hàng hóa. Nếu sáng tác vì cơm áo gạo tiền, ồ ạt chạy theo thị trường, hẳn ngòi bút của bạn sẽ bị thao túng, chẳng còn là chính mình, chẳng có tiếng nói, chính kiến. Những toan tính, so đo sẽ kiềm chế thăng hoa của cảm xúc và con đường đi của bạn. Và đó cũng là lúc bạn đã và đang dự phần trì níu tương lai của một nền văn học. Thị hiếu tức thời của công chúng, của thị trường không phải là tiền đề cho tác phẩm tinh hoa ra đời, ngược lại, nó mang đến một gương mặt khô cằn, hời hợt, oặt ẹo. Những tác phẩm tinh hoa ở bất kì hoàn cảnh, thời điểm nào cũng mãi là cái nền vững chắc, là cái lõi, là chất trụ của văn học. Trong sự mờ nhạt, thưa vắng tình cảm, khủng hoảng niềm tin, độc giả đọc văn học tinh hoa cảm giác như được chạm vào vi mạch của đời sống, được thấu suốt những bí ẩn của bản thể, từ đó, tự điều chỉnh và ý thức hơn về lòng bao dung, vị tha và nhân ái. Nên, bạn đừng bao giờ đặt mình trong tâm thế viết phải đạt đến “best seller”, viết phải đoạt danh hiệu hay giải thưởng gì đó. Đừng bị những ý nghĩ ấy mê hoặc, thâu tóm tâm hồn bạn. Bạn hãy viết thật nhất, sâu nhất, lắng đọng nhất bằng chính sự vang động tự do, thoải mái trong tâm hồn, bằng sự đầu tư công phu của trí tuệ, kinh nghiệm. Sự tự kiêu trước những ma mị của vật chất, danh tiếng đã thể hiện bản lĩnh, chiến lược/thuật tạo dựng và vun đắp tính chuyên nghiệp của bạn. Nếu bạn được giải thưởng, vinh danh thì hãy lấy đó làm động lực để tiếp tục viết, chứ đừng “tự ngắm”, tự mãn, bởi văn chương cũng như dòng sông chảy mãi theo năm tháng.

Viết là hành trình. Nhất là trong thời kì bạn có nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi, thẩm thấu giá trị của nhân loại, đòi hỏi bạn kiên định, cẩn trọng với ngòi bút của mình, làm sao để con đường sáng tạo không bị tụt hậu, đứt đoạn. Vì văn chương vốn dĩ là cuộc chơi đầy khó khăn, thử thách và không bao giờ có đích cuối cùng. Tác phẩm để đời không thuộc về bạn, nếu bạn không tự khắt khe, ý thức về sự “tự vượt” trong tư duy sáng tạo. Và thứ nữa, nếu bạn “ăn mày dĩ vãng”, nhai lại chính mình, thỏa mãn với những gì mà bạn đang có, nghĩa là bạn đang tự đào mồ chôn mình. Bạn hãy bước ra khỏi vùng an toàn, bước ra những giới hạn của bản thân, chấp nhận một hoặc nhiều cú trật bánh để chuyển hướng sáng tạo. Bởi, “phá hủy là sáng tạo” (Inrasara). Phá hủy sẽ cho bạn cái nhìn đa diện và sự tươi mới trong phong cách diễn ngôn. Mọi thử thách luôn được đền đáp. Mỗi lần bạn viết lại hoặc chối từ, vứt bỏ là mỗi lần bạn lớn lên. Các nhà văn lớn như Honoré de Balzac, V.Hugo, Gustave Flaubert, James Joyce, Franz Kafka,… đều nổi tiếng với sự tỉ mỉ, chỉn chu, thận trọng với những gì họ viết ra. Sự nghiêm khắc với sáng tạo là ý thức và trách nhiệm của bất kì người viết nào. Sức mạnh của sự chối từ, đả phá cái quen thuộc, lặp lại sáo mòn sẽ mang đến cho bạn những trạng thái hân hoan, vui sướng. Khoái cảm trải nghiệm cái mới từ đó tiếp tục nảy sinh những ngả hướng sáng tạo, dựng nên miền đa dạng của cái tôi, tính đa thanh của văn bản. Khó tính với ngòi bút của mình là con đường dẫn đến thành công.

Trước nhịp sống công nghiệp, sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ trong bạn sẽ tìm đến miền dịu dàng bí ẩn, thanh tịnh của tâm hồn, thoát khỏi những ma lực bên ngoài đang không ngừng xâm nhập, ràng buộc bạn. Lúc này bạn có nhiều hơn một nỗi cô đơn: nỗi cô đơn trước cuộc sống bất toàn và nỗi cô đơn trước trang viết. Nỗi cô đơn trước cuộc sống bất toàn dồn nén, vun đắp ý tưởng cho bạn, và bạn giải tỏa nó bằng sự viết. Còn nỗi cô đơn trước trang viết, đó là thứ men mà người bình thường không có được. Cho nên, cuộc sống càng “phì đại” càng giúp bạn lùi sâu vào bên trong để suy ngẫm, chiêm nghiệm và thúc đẩy sáng tạo. Tuy nhiên, bạn đã “đủ cô đơn cho sáng tạo chưa?” (Inrasara). Hay nói cách khác, nỗi cô đơn của bạn đã “đủ lớn, đủ mạnh” chưa? Nỗi cô đơn của nhà văn được hiểu là nguồn năng lượng tích cực, biểu hiện cao nhất của tâm trí tĩnh lặng, là nỗi cô đơn nở hoa, kết trái. Bạn phải biết trân trọng, chăm chút nỗi cô đơn của chính mình. Nếu bạn không có nó, bạn cần tạo ra nỗi cô đơn, chứ đừng ngồi chờ nỗi cô đơn đến. Marguerite Duras đã khẳng định: “Nỗi cô đơn của người viết là nỗi cô đơn mà không có nó sẽ không có tác phẩm…”*. Chính bà đã nhiều lần tự trói buộc, giam cầm trong ngôi nhà, ngắt mọi kết nối với bên ngoài và kể cả ngắt tiếng nói của mình để được viết. Những kiềm tỏa, áp đặt của bà trở nên có ý nghĩa: đổi sự mất tự do bên ngoài để có được sự tự do bên trong tâm hồn, đổi sự náo động bên ngoài để có được sự nổi loạn bên trong. Bạn chăm chỉ lao động, “nuôi” nỗi cô đơn, tạo những cuộc phiêu lưu trong mình, là bạn đang chăm sóc nguồn cảm hứng và tái tạo sự viết. Nói gì thì nói, muốn đi đường dài, bạn phải năng động, sáng tạo, bứt phá, sống mái với con chữ và kích hoạt tính “dậy thì” vĩnh hằng của cái tôi và không ngừng “quấy” nó, “vọc” nó. Bởi, hành trình cô đơn của nhà văn chính là hành trình thúc đẩy sự viết và sáng tạo.

Viết trong những thay đổi của thế giới nghĩa là bạn đang làm đẹp giá trị chính mình, không ngừng vươn đến giá trị văn hóa.

H.T.A
(TCSH407/01-2023)

------------------------
* Marguerite Duras, Viết (Trần Văn Công dịch), Nxb. Văn học & Nhã Nam, 2010, tr.13.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THỊ THANHĐặng Huy Trứ là một trong những gương mặt nổi trội của các nhà trí thức lớn Việt Nam ở thế kỉ XIX. Tài năng và trí tuệ tuyệt vời đã hội tụ trong con người ông.

  • NGUYỄN XUÂN HÒA Ưng Bình Thúc Giạ thị (1877 -1961) và Thảo Am Nguyễn Khoa Vi (1881 - 1968) là hai nhà thơ Huế giàu tài năng sáng tác vừa có mặt chung, mặt riêng, phản ảnh cuộc sống xứ Huế được nhân dân mến mộ, khâm phục.

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU* Thưa ông, qua hai tác phẩm gần đây nhất của ông, tôi được biết ông quan tâm nhiều đến vấn đề Phê bình Văn học ở nước ta. Theo ý ông, Phê bình, Nghiên cứu Văn học ở Việt Nam những năm gần đây có biến đổi gì không? Hay nó dậm chân tại chỗ như một vài người đã nói?

  • PHONG LÊIĐến với tôi một nhận xét: Đại hội nhà văn lần thứ VI, tháng 4- 2000, do việc bầu đại biểu từ 8 khu vực, nên vắng hẳn đi những người có thâm niên nghề nghiệp cao. Đặc biệt là những vị có sự nghiệp đáng trọng trên các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, những người có vị thế bậc thầy trên nhiều phương diện của kiến thức đối với các thế hệ viết trẻ.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Tiếp theo Sông Hương số 253 tháng 3/2010)

  • HỒ THẾ HÀNhìn vào tiến tình văn học đương đại Việt Nam, căn cứ vào các giải thưởng văn học, các hiện tượng văn chương nổi bật trong hơn hai thập kỷ qua, - so trong tương quan các thể loại, nhiều người không khỏi lo lắng và lên tiếng báo động về sự xuống cấp của thơ.

  • TRẦN THIỆN KHANHSau chiến tranh khoảng 10 năm, đất nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Các nhà văn đủ mọi thế hệ nghĩ và viết trong một bối cảnh mới. Song họ vẫn chưa thoát khỏi những yêu cầu của đoàn thể, họ vẫn phải phục vụ một “biểu tượng xã hội về chân lí”(1) cái biểu tượng có tính giai cấp, tính chiến đấu, hoặc ít ra cũng có tính nhân dân và màu sắc dân tộc đậm đà đính kèm.

  • BỬU NAMThiên nhiên là “không gian sống” và “không gian tâm tưởng” của con người và thi sĩ phương Đông, nó đã lắng sâu trong vô thức của họ và đã trở thành một loại “không gian văn hóa” và là một hằng số quan trọng trong thơ ca phương Đông.

  • THANH THẢOMỗi nhà văn đích thực đều là mỗi nhà không tưởng ở những mức độ khác nhau. Tônxtôi là nhà văn vĩ đại, đồng thời là nhà không tưởng vĩ đại.

  • THU TRANG (Paris) Có thể từ đầu thế kỷ, do hoàn cảnh lịch sử, người Việt Nam đã tiếp cận văn hóa Pháp. Chúng ta phải công nhận phần ảnh hưởng phong phú do các luồng tư tưởng, quan niệm Tây phương đã tác động đến giới trí thưc và văn nghệ sĩ nhiều ngành.

  • NGUYỄN THẾ - PHAN ANH DŨNGCầm trên tay cuốn Truyện Kiều tập chú (TKTC), NXB Đà Nẵng, 1999, dày hơn 1000 trang của các tác giả Trần Văn Chánh, Trần Phước Thuận, Phạm Văn Hòa, chúng tôi thấy đây là một công trình nghiên cứu công phu, tập hợp và chọn lọc được một số chú giải của các học giả nổi tiếng.

  • FRANCOIS JULLIEN (Trích dịch ch. IV cuốn Đối thoại của Mạnh Tử với một triết gia Khai sáng)

  • HOÀNG NGỌC HIẾNTôi hào hứng đi vào đề tài này sau khi đọc bài tiểu luận của Tỳ kheo Giới Đức “Phật giáo có thể đóng góp gì cho minh triết Việt?”(1)

  • ĐÔNG LACon đường đến thành công thường rất khó khăn, với Nguyễn Quang Thiều ngược lại, dường như anh đã đạt được khá dễ dàng kết quả ở hầu hết các lĩnh vực sáng tạo văn chương.

  • TRẦN HUYỀN SÂMMỗi thời đại đều mang lại một quan niệm văn chương khác nhau. Đối với cha ông xưa, họ không hề có ý định lập ngôn, lại càng không chủ trương xây dựng cho mình một học thuyết có tính hệ thống.

  • CAO HUY HÙNGChủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam mà cả bạn bè trên khắp thế giới đều giành tình cảm trân trọng đặc biệt đối với Người. J.Stésron là nhà sử học người Mỹ một trong số những người đã dày công tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

  • NGÔ THỜI ĐÔN        (Phiếm luận)Đọc Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đến đoạn kết thúc phiên tòa báo ân, báo oán, người hay trắc ẩn thì thấy nhẹ nhõm, người cả nghĩ thì thấy vợ chồng Thúc Sinh- Hoạn Thư thoát nạn mà thán phục sự tế nhị của Nguyễn Du.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sách Phê bình văn học thế kỷ XX tác giả Giăng Ivơ Tađiê có nói tới ba bộ phận phê bình. Phê bình văn học ta hiện nay chủ yếu cũng có ba bộ phận ấy họp thành: phê bình báo chí, phê bình của các nhà văn nhà thơ và phê bình của các nhà phê bình chuyên nghiệp.

  • ĐÀO THÁI TÔNTrong bài Mê tín dị đoan trên chuyên mục Tiếng nói nhà văn (Văn Nghệ số 52 (2032), ngày 26 - 12 - 1988), nhà văn Thạch Quỳ thấy cần phải "phân định cho được văn hóa tâm linh, văn hóa nhân bản, văn hóa tín ngưỡng để phân biệt nó với mê tín dị đoan".