Phan Thị Thu Quỳ - Những dòng sông - dòng đời

14:16 29/01/2010
TRẦN HỮU LỤCKhởi đầu là nỗi nhớ Huế, tác giả Phan Thị Thu Quỳ viết về quê quán,thời niên thiếu như một cách giãi bày, chia sẻ. Những trang viết như sông Hương âm thầm chảy qua những ngõ ngách đời người, trong trẻo và cuốn hút.

Trong 6 năm, khởi từ năm 2006, cứ hai năm tác giả viết một tác phẩm. Lặng lẽ và thì thầm như sông Hương. Tác giả đã thử sức với thể loại ký sự trong tác phẩm đầu tiên “Ra đi - Trở về” (NXB Trẻ -2006), tiếp đến là thể loại tự truyện trong “Áo tím - Đồi sim” (NXB Trẻ - 2008) và đã thử sức với thể loại truyện dài trong “Những dòng sông tôi đã qua” (NXB Trẻ-2010). Dù viết với thể loại nào thì những trang viết của tác giả vẫn chân thật, trong trẻo, giàu chi tiết và đầy trải nghiệm. Sự trải nghiệm của một đời người đã làm nên những trang viết đầy đặn tính hiện thực, thật tinh tế, khá sắc sảo và có sức thu hút.

Tập ký sự “Ra đi - Trở về” được viết trong gần hai năm,gồm có 12 mảng hồi ức. Các mảng hồi ức nối kết lại, không tách rời nhau. Nó gắn bó, dắt díu nhau theo chuỗi năm tháng dài dằng dặc của đời người. Khởi đầu là dấu ấn về quê quán của tác giả: “Tôi sinh ra và lớn lên trong cảnh thân thiết.Quanh tôi đều là bà con và họ hàng của tôi ở trong hai làng. Phía ngoài là làng Đức Bưu của mẹ, phía trong là làng Đốc Sơ của cha và nhà tôi thì ở giữa” (Làng nội làng ngoại). Từ ngôi làng thân yêu đó,bà đã trải qua tuổi thơ đầy bất an rồi đã được người cha dìu dắt đến với cách mạng. Cũng từ ngôi làng đầy ắp kỷ niệm đó, bà phải rời xa đằng đẵng hơn nửa thế kỷ. Những trang ký sự có nhiều chi tiết chân thật, sống động về người thân, xóm làng, về mối quan hệ,ứng xử và tình cảm của người dân ở quê nhà,gợi lại những kỷ niệm thân thương không thể nào quên về ngôi chùa làng,người cậu ruột hy sinh, những ngày sống gian khổ,về buổi ra đi và ngày trở về... Mạch văn tuôn chảy ngọt ngào trong các ký sự: “Bóng quê”, “Cha tôi”, “Trở lại trường”, “Mùa bông cải vàng”... Đặc biệt là sông Hương và màu hoa phượng vỹ là nỗi nhớ xuyên suốt trong các tác phẩm và trở thành hành trình thương nhớ quê hương của tác giả.

Đến tập tự truyện “Áo tím đồi sim”, tác giả tiếp tục với văn phong đã định hình gừng càng già càng cay”. Dường như tác giả còn “mắc nợ” văn chương với sông Hương,với hai làng nội, làng ngoại... Tập tự truyện gồm có 5 chương: “Họ hàng, gia đình và tuổi thơ”, ”Huế - Những ngày bắt đầu của tôi”, “Ra đi - Những đồi sim và áo tím Huế”, “Hà Nội và miền Bắc Tổ quốc” “Trở về miền Nam quê hương” dài trên 300 trang in. Rất dễ nhận ra chính nỗi nhớ tâm thức là động lực thôi thúc tác giả viết tự truyện đầy trải nghiệm và giàu chi tiết tinh khôi và chân thật: “…Ba và tôi lại bắt đầu trèo qua những đồi sim tím. Nắng lên rực rỡ,những đồi sim nối tiếp đồi sim, tôi bắt đầu thấm mệt nhưng không dám kêu. Chỉ lo chạy cho kịp theo ba. Tôi nghĩ bụng sao quê lắm đồi sim thế nhỉ, sao không trồng cây khác? Có lẽ vì đá sỏi chỉ thích hợp cho loài sim và chổi xể”. Sau khi đến trường cấp ba Huỳnh Thúc Kháng tại xã Bạch Ngọc, huyện Đô Lương (Nghệ An) “…Tôi mặc áo dài không giống ai trong trường.Cả trường đồn có cô gái Huế mới ra, thế là ai cũng nhìn tôi, đặc biệt các anh lớp trên đến gặp hỏi tình hình Huế để làm quen. Tôi khổ sở về mấy cái áo dài đen trắng của mạ. Nhưng tôi quý cái áo lụa tím mà mạ đã cho tôi vì tôi rất thích màu áo tím” (Ra đi - Những đồi sim và áo tím).

Đọc tự truyện của tác giả, nhà văn Tô Nhuận Vỹ đã có nhận xét khách quan và thật chính xác: “...Tôi rất xúc động và quý mến một người phụ nữ mạnh mẽ và giàu sức sống, không chịu buông xuôi hay sợ hãi trong cảnh chiến tranh,trong lúc không ai khẳng định được mình có còn sống được đến ngày hoà bình không? Chính trong hoàn cảnh đó đã sinh ra một phụ nữ mạnh mẽ, trung kiên, dám thách thức mọi thứ, kể cả giặc ngoại xâm. Đó là những hình ảnh trưởng thành của một nữ sinh Huế trong gần nửa thế kỷ đấu tranh gian khổ của dân tộc, sự gắng sức gìn giữ những phẩm chất tốt đẹp nhất của một người con gái Huế trong mọi tình thế để luôn sống chung thuỷ, có ích, có nghĩa, có tình với đất nước, làng xóm, với ông bà cha mẹ, với anh chị em, đồng đội, chồng con…”.

Và tác phẩm mới ấn hành là truyện dài “Những dòng sông tôi đã qua” dày gần 400 trang in cho thấy một sức viết bền bỉ, trải nghiệm từ những việc có thật trong cuộc sống của một đời người. Bối cảnh của câu chuyện dài này là những dòng sông. Xuyên suốt cuộc đời của nhân vật chính - Trà Mi thì có đến 6 dòng sông cùng chảy. Đấy là sông Hương, sông Nhật Lệ, sông Lam, Lô Giang, sông Hồng và sông Sài Gòn. Mỗi dòng sông đều có gắn kết với những hoài niệm, biến cố cuộc đời, cảm xúc và cảm hứng sáng tác của tác giả. Như cách gọi của tác giả: Êm đềm, cuối nguồn, tin yêu và hy vọng,cuồn cuộn sóng, mênh mông, trong trẻo và sầm uất.Mỗi dòng sông làm nên một chương trong truyện dài nhưng cuối cùng của một đời người xa quê,đoạn kết của một chuyện dài chính là trở về sông Hương.

Nhân vật chính là Trà Mi đã trải qua những năm tháng thiếu niên êm đềm, rồi làm giao liên, vượt Trường Sơn... xa Huế đến 25 năm. Nhân vật đã sống, hoạt động trong nhiều thời kỳ khắc nghiệt, trong những bối cảnh xa lạ, đã chịu nhiều long đong, khốn khó nhưng vẫn giữ được tấm lòng hiếu thảo, vẫn tin yêu và hy vọng... Trà Mi đã trải qua những gian khổ, đau buồn vì tình riêng và nỗi chung. Và Trà Mi cũng đã có dịp đi nhiều nước để quan hệ công tác, học tập... Cuộc đời đa đoan của nhân vật Trà Mi đã được tác giả khắc họa chân thực và sinh động, vẽ nên tính cách của nhân vật nữ Huế. Bối cảnh làm nên câu chuyện đã được tác giả mở rộng biên độ. Cuộc đời của nhân vật có nhiều chi tiết khá “đắt” đã được tác giả chắt lọc và vận dụng khá linh hoạt.

Đọc truyện dài viết theo chương hồi truyền thống, nhân vật chính vẫn xuyên suốt thời gian và không gian, bối cảnh, tác giả vẫn giữ văn phong “rất Huế”, vẫn toát lên chất Huế làm nền cho câu chuyện.

Đọc truyện dài “Những dòng sông tôi đã qua” của tác giả Phan Thị Thu Quỳ có thể đọng lại với nhân vật Trà Mi, vừa dịu dàng,nền nếp mà rất kiên định và mạnh mẽ, rất hiếu thảo và đầy tình nghĩa... Bên cạnh nhân vật chính, tác giả đã xây dựng những nhân vật khác khá ấn tượng như: Ông Phán Tuệ một người yêu nước mẫu mực, bà Phán Tuệ điển hình của một bà mẹ Việt Nam thời chiến, bác sĩ Phú bản lĩnh và tài hoa, anh Lê Cảnh Tân người hoạt động gan dạ, mưu trí và chung tình, cu Thắng thật thông minh và láu lỉnh… Tác giả chỉ thuật lại cuộc đời của nhân vật Trà Mi, nhưng người đọc có thể cảm nhận ở đấy có bóng dáng của cuộc đời tác giả.

Mỗi dòng sông gắn với một đoạn đời người. Cái tứ này sáng tạo nên truyện dài. Đấy cũng là tài năng của người viết truyện. Nhiều đoạn đời của nhân vật Trà Mi làm nên một bức tranh toàn cảnh của nhiều người đã sống, trải qua trong mấy chục năm chiến tranh và hoà bình. Sức khái quát của một tác giả không phải là nhà văn chuyên nghiệp làm nên từ những suy nghĩ mà là từ những việc có thật trong cuộc sống của một đời người, thật đáng trân trọng.

Có một dòng chảy của cuộc đời bên những dòng sông cùng chảy trên quê hương đã làm nên ba tác phẩm như thế của tác giả - dược sĩ Phan Thị Thu Quỳ.

T.H.L
(251/01-2010)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THÁI KIM LAN

    (SH) - Ở đây mỗi ngày tôi đi dạo khoảng 45 phút đến 1 tiếng đồng hồ, mỗi lần tôi đếm được 4500 bước, có ai như tôi, là đi vòng được 2/3 công viên, đi hết 6500 bước là đến tòa lâu đài nhỏ Blutenburg, tính ra mỗi ngày tôi đi khoảng hơn 2 đến 3 cây số, nơi tôi ở gọi là Nymphenbad, nơi tắm của các nàng tiên, khoái chưa?

  • VÕ QUANG YẾN
    (Thân tặng tất cả các bạn yêu Huế)

    37 năm ra đi tưởng không hẹn ngày về. Thế mà rồi tôi cũng mua vé máy bay lên đường về thăm quê.

  • CAO HUY THUẦN

    Cách đây hơn một năm, tình cờ tôi gặp chị H. ở sân bay, đang cân hành lý để đi Mỹ. Chị bảo: Tôi qua Pháp nhân ngày giỗ đầu ông cụ tôi. Cả gia đình tụ họp đông đủ. Ông anh cả của tôi ở Pháp, tôi ở Mỹ qua, một cô em gái ở Đức, một cô em nữa ở tận Đan Mạch. Chúng tôi định lấy ngày kỵ ba tôi để mỗi năm một lần anh em gặp nhau.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Gặp gỡ với anh Lê Huy Cận, Tổng thư ký Hội “Người yêu Huế” ở Pháp)

  • Trên giải đất hình chữ S mà đáng lẽ chúng ta phải sống, có chỗ nào mà chúng ta không nhớ, không thương! Nhưng dĩ nhiên, có chỗ chúng ta thương nhiều hơn một chút. Đó có thể là chỗ mà chúng ta sinh ra, lớn lên. Chỗ mà chúng ta lưu lại nhiều kỷ niệm. Đó cũng có thể là chỗ mà vì một duyên cớ nào đấy thôi, ta bỗng thấy gắn bó suốt đời.

  • THÁI THU LAN Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Vua Hàm Nghi (1871 - 2011)

  • VÕ QUANG YẾNHữu duyên thiên lý năng tương ngộVô duyên đối diện bất tương phùng(*)                                                Phong dao

  • NGUYỄN PHAN QUẾ MAISân bay Huế, tối ngày 14/12/2010, một người đàn ông cao lớn tóc đang chuyển màu đăm đắm nhìn qua cửa kính. Ông đang cố gắng níu giữ hình ảnh của từng cành cây, ngọn cỏ, từng hơi thở mát lành của sông Hương vào trong trí nhớ của mình.

  • THANH TÙNGTốt nghiệp Cử nhân Văn khoa, dạy học một năm ở trường Đồng Khánh, Thái Kim Lan qua CHLB Đức học khóa đào tạo giáo sư Đức ngữ của Viện Goethe Munich, với học bổng của Viện trao đổi Hàn lâm Đức (DAAD).

  • VÕ QUANG YẾNĐây không phải là lần đầu tiên có múa cung đình trên sân khấu Paris. Trước đây, chẳng hạn như đầu năm 2004, một đoàn ca múa của Nhà hát Nghệ thuật Cung đình thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã biểu diễn ở trụ sở Unesco trong buổi lễ trao tặng bằng công nhận 28 kiệt tác là di sản phi vật thể thế giới và truyền khẩu nhân loại, trước khi trình bày chúc Tết kiều bào Paris, Lyon, Marseille, Bruxelles.

  • HÂN QUY“Làm gì để có tiền giúp Huế mà tránh đi quyên”, đó là ý nghĩ cứ xoáy trong đầu óc mỗi anh chị em chúng tôi đã lâu và nhất là trong buổi tiếp xúc đầu tiên với bà Nguyễn Đình Chi ở nhà chị Song, trưa ngày thứ bảy 1-10-1983. Có một anh bạn gợi ý: “Tại sao chúng ta không nhân dịp có bà Chi đang còn ở đây để tổ chức một bữa cơm?”

  • HƯƠNG CẦN      (Chuyện ít ai biết trong làng âm nhạc)Nhạc sỹ, Giáo sư viện sỹ Lưu Hữu Phước (1921-1989) là tác giả của rất nhiều hành khúc nổi tiếng. Với tài năng của mình, từ bài hát này đến bài hát khác, ông đã góp phần nuôi dưỡng những phong trào cách mạng to lớn.

  • HÀ VĂN THỦYCó thể nói nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương đã tạo nên một hiện tượng thơ, nhiều tập thơ của bà được in với số lượng lớn, tác quyền bà thường nhận sách mà không nhận tiền, những nơi in thơ cho bà vẫn dành cho bà những niềm ưu ái. Công ty Văn Hóa Sáng Tạo Trí Việt (First News) in tiếp hai năm hai cuốn Hãy Cho Nhau - Nước Vẫn Xanh Dòng (2004 - 2005).

  • TRẦN THỊ LINH CHITừ ngày theo chồng vào Nam, tính ra xa Huế hơn nửa thế kỷ, đất khách quê người, hiếm khi được nói hay nghe tiếng của quê hương một cách trọn vẹn. Ngay trong gia đình, đến đời cháu nội, cháu ngoại thì đã rặt tiếng miền Nam. May mắn bên mình còn có ông “Dôn”(*) người thường xuyên “gợi nhớ” qua câu nói đầu môi khi đối thoại: Mụ ơi!

  • TRẦN CÔNG TẤNNhững ngày làm báo, tôi đã biên tập mấy bài của cộng tác viên Võ Quang Yến từ Pháp gửi về. Tôi biết rõ ông là một nhà khoa học lớn, hàng chục năm liền làm Giám đốc ở Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp. Vài lần ông về làm việc giúp nước, chúng tôi đã gặp nhau.

  • TÔN NỮ NGỌC HOANhư một “kẻ bị lưu đày trên đảo xanh”, Hữu Vinh luôn hướng về quê nhà với trái tim của chàng trai 18 tuổi - tuổi của ngày rời xa người mẹ thân yêu, xa tiếng chuông chùa Thiên Mụ, xa con đường đến trường xuôi theo giòng Hương quen thuộc đến chân trời mới lạ để rồi bằn bặt 18 năm sau mới có cuộc đoàn viên rưng rưng nước mắt trên quê xưa.

  • TRUNG SƠNVậy là tôi không còn dịp để được thăm chị nữa rồi!Mấy năm trước, khi nhà văn Nhất Lâm, một người cháu của nhà thơ Vĩnh Mai, cho biết chị Phương Chi đã phải vào sống những năm cuối đời tại Trại Dưỡng lão ở Hà Đông, tôi đã phải thốt lên: “Trời! Sao lại thế?!...”

  • THÁI KIM LAN...“Cắt từng miếng da non nhìn xem, tôi vẫn vậy/ Chảy ròng ròng trong máu nước sông Hương”...Bỗng tôi thấy em cũng về lại đó.../ Tôi lại cùng em đi thăm chợ Tết/ Em nép mình sưởi ấm với vai tôi/ Đôi mắt, nụ cười, môi hồng rực rỡ/ Huế đây rồi nhờ có em tôi                         (“Hải đường say nắng”, Chỉ có anh mới nhận ra em)...

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNThạch Hãn - Mồ hôi của đá chứ không phải mồ hôi đá. Tương truyền rằng, phía cực Tây Trường Sơn có ngọn núi Linh Sơn cao ngất, thường đổi màu từ cổ đồng lúc bình minh, đỏ thẫm giữa ban trưa và tím ngát vào ban chiều. Vào một buổi chiều thuở hồng hoang, có con chim Phượng Hoàng bay ngang núi tím. Núi quá cao khiến chim rủ cánh phải đổ xuống từ lưng trời làm vỡ một góc núi. Không hiểu suối khe, mồ hôi hay nước mắt của núi đã tuôn ra từ khe núi bị nứt tạo thành một dòng sông chảy miết về phía đồng bằng, tuôn ra biển. Dòng sông đó là dòng sông Thạch Hãn.

  • VÕ QUANG YẾN                Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương,                Mái nhì man mác nước sông Hương.                                                     Tố Hữu