Phải từ bỏ sự thoả hiệp

14:39 25/05/2009
TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

Nhưng tầm sâu và độ rung của hiện thực trong tiểu thuyết này không phải vì thế mà giảm đi. Bởi vì ngòi bút trong tay tác giả không nhằm tới việc phản ánh một sự kiện thời sự trong dòng cuộc sống xã hội đương thời. Ngòi bút của tác giả như một con dao trủy thủ, nhỏ nhưng sắc bén, xoáy sâu vào "uẩn khúc" của lòng người, tìm cho đến chỗ thẳm sâu nơi cội nguồn của cái ác.

Số tiền tham ô mà ông Nguyễn Thanh Đấu nuốt trọn từ đâu mà có? Đấy là tiền xoá đói giảm nghèo mà nhà nước rót về cho dân nghèo xã Trung. Số tiền lẽ ra có thể giúp người dân vượt qua cảnh nghèo khó, thì lại dùng để "tăng giàu". Đây nhất định chỉ là một trong muôn ngàn "trò ảo thuật" của ông Đấu, bởi chỉ cần giữ chức trưởng phòng Thương binh Xã hội của một huyện cũng đủ để cho ông Đấu đạt đến một cơ ngơi giàu có: "Cửa vào bằng sắt nặng đến gần một tấn, lúc mở đóng phải đẩy chạy trên đường ray. Chuông điện đính trên trụ cổng ngang tầm người đứng. Đó là cái cổng sau. Khách quen thường đến nhà ông bằng cổng sau ấy. Cửa vào nhà qua hai lớp, lớp ngoài bằng sắt xếp gấp, lớp trong bằng kính".

Trên đất nước này có bao nhiêu ông trưởng phòng như Nguyễn Thanh Đấu?

Để đạt được sự giàu có ấy, ông Đấu phải có một bản lĩnh và cách sống đầy thủ đoạn. Chính đây là nơi ngòi bút của Hoàng Văn Bàng tập trung hết sự sắc sảo để thể hiện tính cách của một dạng người. Dạng người ấy ta vẫn gặp nhưng không nhận ra, bởi chúng mang khuôn mặt nguỵ trang. Bằng kinh nghiệm sống dày dặn, bằng sự quan sát sắc bén, Hoàng Văn Bàng lột tả hết khuôn mặt thật được che giấu của nhân vật: y rất thông minh, khôn khéo, nhưng trí thông minh của y được vận dụng để ăn chận từ món tiền một bữa nhậu, nuốt trộng món quà của một người cầu cạnh mà chẳng phải giúp gì người ta; trút trách nhiệm cho kẻ khác, mặc tình ăn ốc cho người đổ vỏ, giăng bẫy mỹ nhân kế với người có chức quyền cao hơn, để thao túng, trục lợi cho mình; bỏ bao nhiêu tâm can trí não dụ cho cả nông trường đi xem một chương trình văn nghệ tạp nham, chỉ để đạt đến mục đích: tạo điều kiện để ve vãn cưỡng hiếp người đàn bà mà y đang thèm muốn.

Đọc những dòng đặc tả tính cách Nguyễn Thanh Đấu, ta không khỏi rùng mình nghĩ đến những trang đặc tả nhân vật Frôlô, con quỷ dâm ác và xảo trá núp dưới bộ áo linh mục trong Nhà Thờ Đức Bà ở Paris...

Cũng như Frôlô và nhiều nhân vật điển hình cho cái ác trong văn học, Nguyễn Thanh Đấu là hình ảnh của sự xảo trá ranh ma và bản chất ích kỷ chiếm đoạt. Nét riêng của nhân vật Đấu là, hình thành trong khung cảnh chật hẹp bé nhỏ của nông thôn, y còn có thêm tính cách bần tiện bủn xỉn. Tính cách ấy được che giấu khéo léo dưới tấm áo cán bộ nhà nước nên lại làm phát sinh thêm tình huống mâu thuẫn đầy chất bi hài kịch; sự thấp hèn khoác áo cao cả, tâm địa nhỏ nhen độc ác được giấu che sau vẻ nghiêm túc, vị tha.

Chỉ ai từng là nạn nhân của Đấu, mới hiểu hết bản chất của y. Nhưng không ai ngăn cản được con đường hanh thông của Đấu, bởi chính sự hèn nhát của những kẻ chung quanh; một ông Thụ từng thân bại danh liệt dưới tay Đấu nhưng không dám phản kháng; một cô Miên xinh đẹp, ghê sợ sự phóng đãng của Đấu nhưng vẫn chơi trò "đem mỡ nhử mèo" bởi không muốn mất việc làm; Và cả Quân, chồng Miên, tuy cảnh giác nhưng vẫn có ý dùng vẻ hấp dẫn của vợ mình như một "con dao mỹ nhân"... Điều mà tác giả muốn nói lên là: cái ác tồn tại được bởi có sự thoả hiệp tầm thường của những người trong cuộc, họ không dám đứng lên tố cáo vì dù sao, họ phải duy trì sự sống bé mọn của mình, một đồng lương, một chỗ làm đủ cho họ tự nguyện trở thành nạn nhân, và mãi mãi kẻ gian tà vẫn luôn luôn thắng thế.

Cuối cùng, ở đỉnh điểm cao trào câu chuyện, độc giả mới được hả hê khi thấy Quân từ bỏ thái độ thỏa hiệp. Anh chĩa súng vào Nguyễn Thanh Đấu, giữa lúc y đang thực hiện dục vọng dâm ô của mình. Tên Đấu giờ đây phải đành vứt bỏ bộ mặt uy nghi để "ngồi chò hỏ chắp tay vái lạy", tuy thế vẫn không quên dùng ba tấc lưỡi xảo trá để tiếp tục cái luận điệu "vị tha"... mong thoát nguy trong đường tơ kẻ tóc.

Giả như lúc đó Quân không về kịp? Và chắc gì bản cung khai tội lỗi mà Quân bắt tên Đấu viết ra dưới sự đe dọa của cây súng trong tay đã được công nhận? Nếu diễn tiến câu truyện diễn ra chệch đi một chút thôi, có lẽ Đấu vẫn tiếp tục thắng lợi trên hành trình của cái ác!

Nguyễn Thanh Đấu cuối cùng đã phải quỳ xuống, hình ảnh đó làm hả lòng người đọc đang ghê tởm và căm giận. Nhưng y phải quỳ xuống chỉ vì sự sơ suất tình cờ của chính y, chứ chưa phải là từ tính tất yếu của lôgích câu truyện và lôgích cuộc sống.

Nếu sự tình cờ không xảy ra?
Gấp sách lại rồi, lòng ta vẫn còn chia xẻ nỗi âu lo cùng tác giả.

Huế, 16-5-03
T.T.M
(173/07-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.