Ông già với khu vườn cuối đời

09:37 12/08/2011
Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.

Nhà văn Mia Couto - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if !mso]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]



MIA COUTO



Ông già với khu vườn cuối đời


Trong vườn Dona Berta, có một cái ghế dài. Cái ghế duy nhất còn lại. Tất cả những cái ghế kia đã bị gãy, bể, thành gỗ phế liệu để chụm lửa. Chiếc ghế cuối cùng còn lại này là chỗ sống của một ông già. Hàng đêm, ghế và người, gỗ và da thịt, gắn chặt cùng nhau. Nghe nói rằng ông già có sọc trên da, theo hình dạng của nẹp gỗ đóng ghế - cái bộ xương bên ngoài của ông. Ông già được đặt cho một cái tên: Vlademiro. Ông được đặt tên theo tên con đường chạy qua đó.

Hôm nay tôi được biết là cái ghế băng được dọn đi vì người ta sắp xây một chi nhánh ngân hàng mới ở khu đó. Tôi xúc động vì tin này: khu vườn nhỏ đó là thế giới còn lại duy nhất của bạn tôi, đó là nơi trú ẩn duy nhất của ông. Tôi quyết định đi thăm Vlademiro, một nhiệm vụ của trái tim.

- Buồn à? Ai nói tôi buồn?

Tôi không thể tin được tai mình: ông già quá vui vì tin này. Một chi nhánh ngân hàng, một trong những nơi thuộc ngành tài chính, tất cả rắn chắc và bằng bê tông, thì giá trị hơn nhiều một nhánh cây. Người ta đã nói với ông nhà ngân hàng sẽ lớn đến thế nào, sẽ có nhiều chỗ cho ông ngủ cùng với con thú cưng của ông. Và ai biết được, biết đâu chừng ông cũng có một việc làm ở đó? Như trông nom những luống hoa chung quanh. Như thế thì ông di chuyển từ một khu vườn đầy những nhánh cây đến một chi nhánh đầy hoa.

- Tôi sẽ chuyển từ nhánh cây sang chi nhánh ngân hàng. 

Nụ cười của ông là một nụ cười buồn, nụ cười trống rỗng. Trời sắp tối. Khi đêm về, Vlademiro sẽ đắm mình trong men rượu, uống đến cặn rượu cuối cùng trong các chai. Khi ông say, ông sẽ băng ngang qua đêm, như con cua. Ở phía bên kia đường có nhiều cô gái ăn sương đứng. Bọn lầu xanh, ông gọi họ vậy. Ông biết tên từng cô gái đó. Khi họ không bắt được khách họ lang thang vào vườn và ngồi bên cạnh ông. Vlademiro kể họ nghe những chuyện khó tin và họ xem những chuyện vô lý của ông như những lời dỗ dành. Thỉnh thoảng, ông lắng nghe những tiếng la thét về đêm của những cô gái này. Có người đánh họ. Ông già vùi mình bất lực trong đôi tay, không thể đáp ứng những lời kêu cứu của họ, đồng thời ông xin Chúa ghi nhận.

- Chúa quá tốt, bây giờ Người không trừng phạt ai. 

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]Minh họa: Đặng Mậu Tựu

Vlademiro còn nói nhiều với thượng đế. Sự “chitchat” với thánh thần của ông làm tôi ngạc nhiên. Vlademiro từng là người sùng đạo nhất trong những người theo đạo. Nhưng ông già có thể giải thích điều này: khi chúng ta già hơn chúng ta bắt đầu có tự do với thánh thần. Đó là vì chúng ta đã vượt qua sự sợ hãi của chúng ta. Có phải đó là vì chúng ta biết càng nhiều thì tin càng ít? Ông không biết mà cũng không tin. Đôi khi ông thắc mắc:

- Thượng đế đã thành người vô thần ư?

Phải chăng ông già đã không còn sợ hãi trong đời? Cô độc như thế, không một mái nhà của mình, một mái nhà đúng nghĩa. Ông thách thức tôi về điểm này:

- Một ngôi nhà đúng nghĩa? Có ai có một ngôi nhà đúng nghĩa hơn chỗ này không?

Đôi khi, trong cơn bệnh, ông cảm thấy thần chết ở gần bên rình mò. Nhưng Vlademiro biết vài mẹo vặt, và ông làm cho kẻ đến bắt ông mắc lỡm. Ngay cả khi răng ông đánh lập cập và mắt ông long lanh vì sốt, ông hát, giọng ông run run khi ông giả làm đàn bà. Đàn bà, ông nói, thì lâu chết hơn.

- Thần chết thích nghe bài hát. Hắn thôi nghĩ về tôi mà nhảy nhót.

Và đó là cách cuộc đời tiếp tục, một cuộc chơi trốn - tìm. Cho tới một hôm, thần chết lấy cắp được một khúc quân hành và đó là lần đầu tiên y hát. Nhưng thần chết cứ nhất định rằng y phải trục xuất ông. Vlademiro cố thủ trên ghế. Ông khăng khăng rằng ông chưa ở tuổi phải đi. Người già là những người không xét đến tuổi của mình.

Trong thời gian đó Vlademiro rất tỉnh ngủ. Đồng hồ báo thức của ông là một con cóc. Ông ngủ với con cóc cột vào chân. Ông giải thích bằng giọng trịnh trọng: con vật bị cột chỉ để ngăn nó khỏi nhảy đi.

- Cóc thì không bay được vì nó có nước trong tim.

Giờ thì mọi chuyện đang sắp kết thúc. Người ta sẽ phá khu vườn, thành phố sẽ nhiều tính đô thị hơn, ít tính người hơn. Đó là lý do tại sao tôi đi thăm ông già. Tôi trở lại với lý do tôi đến đó:

- Cho tôi biết với việc xây dựng ngân hàng này ông thực sự có vui không?

Vlademiro trầm ngâm hồi lâu. Ông đang tìm điều đúng nhất ông có thể tìm. Nụ cười biến mất trên mặt ông.

- Anh đã đúng. Niềm vui của tôi là giả tạo.

- Vậy sao ông không phản ứng gì?

- Tôi đã kể với anh về người vợ mới chết của tôi chưa?

Tôi lắc đầu.

Ông già kể tôi nghe chuyện của vợ ông, đã chết một cái chết dai dẳng đầy những đau khổ. Một chứng nhiễm trùng chậm. Ông đã nhảy múa làm hề trước mặt bà suốt ngày, những trò hề hết sức mình để xua đuổi ngày phán quyết cuối cùng. Vậy mà bà ấy cười, có thể vì thương hại người chồng tốt bụng. Chính là ban đêm, khi bà đã ngủ, là lúc ông khóc, điên lên vì tuyệt vọng.

- Thì cũng như bây giờ. Tôi chỉ khóc khi khu vườn đã ngủ.

Tay tôi quàng vai ông. Đã tới lúc nói lời tạm biệt. Tôi trở lại tỉnh giác với cảm xúc lớn lao về sự từ bỏ. Đàng sau tôi, tôi để lại Vlademiro, con đường và một khu vườn với cái ghế băng đơn độc. Cái ghế băng cuối cùng của khu vườn.

Võ Hoàng Minh dịch
(Old Man with Garden at the Rear End of Time)


(269/07-11)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Butribabu tên thật là Sivarazu Vencata Xubarao (1916 - 1967) là một nhà văn lớn của Ấn Độ, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng “Còn lại gì?” và 10 tập truyện ngắn trong đó tập đầu tay “Năm truyện ngắn” xuất bản năm 1933. Ông sáng tác bằng tiếng Telugu truyện ngắn “Khasima Bi” in trong tập “Tuyển tập sáng tác của các nhà văn Nam Á” của nhà xuất bản “Văn học”, Mat-xcơva, 1980.

  • LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.

  • L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.

  • Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.

  • William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.

  • LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.

  • LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.

  • LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...

  • L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.

  • L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.

  • LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.

  • LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.

  • PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.

  • A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.

  • An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.

  • VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.

  • Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.

  • K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.

  • LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.

  • LGT: Irving Stone (1903-1989), nhà văn Mỹ hiện đại, nổi tiếng trong nước và trên thế giới nhờ những kịch bản phim lịch sử, những tác phẩm về tiểu sử các nhân vật nổi tiếng, nhất là những cuốn “Khát vọng cuộc sống” (Lust for Life) viết năm 1934, về Vincent van Gogh, danh hoạ Hà Lan, “Tê tái và Đê mê” (The Agony and the Ecstasy) viết năm 1961, về Michelangelo, danh hoạ và nghệ sĩ điêu khắc Italy, “Thuỷ thủ trên lưng ngựa” (Sailor on Horseback) về Jack London, nhà văn Mỹ lừng danh...).