HẠO NGUYÊN
“Đành để hồn theo nước trôi không màu”
- Lời nhạc Phạm Duy
Minh họa: Tô Trần Bích Thúy
1.
Thi thoảng, sau những “cơn địa chấn trong diễn trình đến cái chết” của tôi (trong ngoặc kép là chữ của Y), chúng tôi lại về nhà một người bà con của Y ở làng Phước Tích, Phong Điền.
- Để mày bớt ngu người.
Lần nào Y cũng nói vậy.
Và lần nào tôi cũng câm lặng.
Có những loài thú bị thương không bao giờ kêu than. Chúng lê thân về tổ, tự chữa lành hoặc nằm chờ thối rữa.
Còn tôi?
- Để tiếp tục bị thương, con trai ạ.
Y chế giễu ánh mắt Hamlet của tôi.
2.
Từ thành phố về làng gần bốn chục cây số, hai thằng cà nhong đạp xe mất hơn nửa buổi.
Huế, thời đó, với riêng tôi, là một mê cung sầu bi với những đường, những ngách dẫn vào mộng mị tăm tối. Những lăng tẩm, những đền đài, những nẻo đi về vắng lặng trong khuya, tiếng rao đêm hư vô mời mọc… là những điểm xuyết lấp lánh trên tấm áo huyễn ảo của tuổi làm quen cái chết.
Phước Tích là một cõi khác. Trong trẻo. Giòn tan. Nhưng không hề tỉnh thức như lẽ ra phải thế.
Ở đó, có những câu chuyện suốt đời tôi không thể kể ra bằng lời.
3.
Cũng như bao nhà khác trong làng, nhà bác của Y bao bọc xung quanh bởi hàng chè tàu xanh. Nhà gỗ ba gian lọt thỏm trong khu vườn rộng. Những hàng cau đêm ngày ngân nga giai điệu kì bí.
Bác trai đã mất.
Bác gái ngoài sáu mươi, hằng ngày gánh cơm hến đi bán các làng bên.
Chị Hạc, tên lót là Hoàng, giáo viên một trường tiểu học ở huyện. Chị Hạc, với đôi mắt không có hình dung từ nào khả dĩ để hình dung.
Bé Phượng đang học cấp hai.
Về đó, hai thằng như lạc đà sa mạc về trong ốc đảo.
Im lặng. Thở dài.
4.
Có chiều, tôi theo hai chị em ra bến Lò giặt giũ. Dòng Ô Lâu trôi trong ánh tím, bên tê là làng Hội Kỳ. Một con đò vắng phía kia bờ, gác mái hững hờ dưới rặng tre.
Chị Hạc bảo:
- Z về đây nhiều, ra bến ni nhiều, răng rồi cũng gặp…
Chị Hạc bối rối bỏ lửng câu nói, quay sang bé Phượng:
- Đưa chị lọ xà phòng.
Tôi nhìn hai người, buột miệng:
- Gặp gì?
Chỉ là hỏi vu vơ vậy thôi. Hồn trí tôi còn đang dõi theo con đò gác mái. Thoáng nghe tiếng tiêu vọng ra từ mui thuyền.
- Cái thuyền đó không phải ở làng ni.
Dường như đọc được suy nghĩ của tôi, bé Phượng lên tiếng:
- Cứ đến gần mùa trăng là lại thấy cái thuyền nớ đến đậu. Lạ cái là không bao giờ thấy chủ đò.
Chị Hạc ngẩng nhìn con đò bên kia, rồi nói một mình:
- Có những cuộc đời chẳng biết đợi chi.
5.
Những đêm ở lại, nếu có trăng, thế nào Y và tôi cũng mang rượu ra cây đa bến Lò để ngồi. Mặc kệ bác gái ngăn cản, hai thằng tôi vẫn cười khì tảng lờ.
- Tụi bây không nghe lời tau, có chuyện chi đừng trách.
Chị Hạc, những lúc như thế, thường ngồi lặng thinh bên trang giáo án, không ủng hộ cũng không phản đối. Chỉ thấy chị dừng bút, nhìn mông lung qua khung cửa sổ. Ngoài kia là đêm. Chị nhìn gì ngoài đêm? Chị thấy gì ngoài đêm?
Y vẫn lôi tôi đi. Không có chi mô bác.
Về đây không nhạc không tranh không sách vở, hai thằng im lặng nghe sông chảy. Đôi khi tôi cố tìm hình bóng con đò neo bến bên kia, nhưng không thấy.
Ngồi bên dòng Ô Lâu dưới trăng, cứ như vừa làm một cú rơi không tưởng xuyên qua mấy thế giới. Một mớ bản - ngã - lỗi tan rã dần trong tiếng cá đớp nước, tiếng gió rào qua đám cỏ lau, tiếng thở thì thầm của đất.
Và mỗi khi trăng đã chếch bên kia sông, lúc chuẩn bị về, thế nào cũng nghe trong xa xăm những lời tiếc nuối mơ hồ.
Tôi nhìn Y dò hỏi.
Y cũng nghe nhưng chỉ lắc đầu.
6.
- Em có một giấc mơ, lạ lắm.
Có lần đang ngồi bên hiên nhà, nhìn nắng ban mai len qua những tán cau, bé Phượng đến bên tôi, thủ thỉ.
- Mà không phải một lần.
Tôi lạ lẫm nhìn bé Phượng. Ở tuổi mười ba mười bốn, mấy ai mơ đi mơ lại một chiêm bao?
- Em mơ gì?
Phượng nhìn thẳng vào mắt tôi một hồi lâu. Không chịu nổi ánh nhìn đó, tôi giả tảng ngó lên trời.
Ngập ngừng một lát, cô bé cười:
- Em không kể đâu. Bây chừ anh chưa thể hiểu. Khi mô anh hiểu em sẽ kể.
Tôi nhìn cô bé như bị thôi miên. Ở độ tuổi này, tôi đã hiểu được những gì? Cuộc sống bày ra quanh đây quá nhiều hình tướng, chúng ta như cá bị bủa vây. Đến khi nào mới biết ngoài tấm lưới kia là gì?
Sau này rất nhiều năm, Phượng cũng không bao giờ kể với tôi về giấc mơ ấy. Đôi lần gặp lại, chỉ cười buồn:
- Anh vẫn chưa hiểu đâu, Z ạ!
7.
Có một lần về. Chủ nhật. Chị Hạc lên trường họp phụ huynh. Chiếc cub của chị không nổ máy. Tôi lấy xe đạp đèo chị đi. Con đường dọc sông Ô Lâu rợp bóng tre. Những mảnh vườn rì rào hương cau trong gió sớm. Nắng mới lên lấp lánh trên những tán lá còn đẫm sương.
Chị mặc áo dài, ngồi một bên, tay níu yên xe. Đường chông chênh.
- Z có bạn gái chưa?
Tôi cười trong hơi thở.
- Rồi chị. À…
- Sao?
Tôi im lặng. Những người con gái đi qua đời tôi trong quãng đời vừa rồi như những bông tuyết đậu xuống cành thông mùa băng giá. Để tan như chưa từng.
- Khi nào chị mới giới thiệu bạn trai?
Tôi hình dung chị đang nhìn mông lung.
- Chưa. Chưa đâu, Z.
Từ nhà đến trường của chị khoảng dăm cây số. Hai chị em vừa đi vừa trò chuyện nên không thấy xa.
- Khi nào có dịp, chị sẽ cho Z xem cái này.
- Cái gì chị?
- Bí mật. Khi nào có dịp, Z nhé!
8.
Bác gái bảo sở dĩ tau không cho tụi bây ra ngoài bến Lò buổi tối vì răng? Hồi xưa, đoàn thuyền đưa công chúa Huyền Trân vào xứ Chiêm có dừng lại đây mấy ngày để lấy thêm lương thực. Một cung nữ trong đoàn đã phải lòng trai làng xứ ni. Đến khi đoàn tiếp tục vào Chiêm, đi không đặng, ở không xong, người cung nữ đó trầm mình xuống bến. Hôm đó vào mùa trăng. Bởi rứa, cứ tới mùa trăng, ra bến đêm khuya là nghe những thở than.
Bác gái lại bảo: Tau sống gần bảy chục tuổi đầu, thấy tụi nhỏ bây chừ thương quá. Tôi hỏi vì sao. Bác gái bảo mấy đứa chừ sống buồn bã quá. Tôi bảo tụi con vui mà, có internet, có sách, có nhạc, có phim… Bác lắc đầu. Mấy thứ đó làm mụ mị con người chớ được chi mô. Rồi bác bảo hồi xưa vui lắm, lễ hội nhiều lắm.
Bác thở dài: Con Hạc sau ni là khổ lắm. Tôi im lặng. Đời ai mà không khổ hở trời? Bác nói: Không phải rứa, sinh ra làm người là khổ, cái đó Phật nói rồi, không tránh được, nhưng con Hạc thì khác, hắn ưng khổ, hắn tự tìm tới cái khổ. Tôi trầm ngâm, đã khổ thì tìm đến cái khổ hay chờ cái khổ đến có khác chi nhau. Bác gái cắt dòng suy nghĩ của tôi: Hắn không yêu ai mô. Bác lại thở dài. Tau biết hằng đêm hắn làm cái chi trong chiêm bao của hắn nớ, mà tau không can được. Tôi nhìn bác trân trối. Hắn có một cái hộp, giữ kỹ lắm. Tau biết mà không coi. Hắn cũng không cho tau coi mô. Nhưng tau biết, sẽ tới hồi hắn đưa cho bây coi.
Bác lấy que cời than. Những tia lửa bắn lên. Bác đăm chiêu một hồi, rồi tiếp: Mà tau dòm bây thấy cũng lận đận lắm đó Z nạ. Tôi cười. Bác lại thở dài.
Tôi đi ra vườn. Bóng chiều nhập nhoạng. Khói lam từ các mái nhà vương vất trên những hàng cau.
Một mình trong chiều tối, bỗng dưng lòng đau thắt. Cứ như ai đó vừa tọng vào ruột gan tôi một mớ bùi nhùi, không thể tiêu hóa được.
9.
- Tau chẳng để tâm.
Có lần tôi kể với Y về câu chuyện của chị Hạc, bé Phượng và những lời của bác gái cho hắn nghe.
- Ai cũng có một bóng tối của mình. Mi để tâm làm chi thêm khó sống. Nhưng cái chuyện nường cung nữ tự trầm đó thì tau biết lâu rồi.
Mắt Y bỗng sáng lên:
- Z ạ, tự tìm tới cái chết là một trong những phẩm giá phi thường của con người. Đương nhiên, tau không bàn đến các loại tự tử tào lao vì vỡ nợ, vì bị phụ tình, vì trầm cảm… Loại trừ những thứ đó, khi mi tự quyết thời điểm ngừng sống là mi đã đạt đến một tri kiến về diễn trình của chính mình.
Tôi nhìn Y ngao ngán. Chẳng hiểu sao cuộc đời gán thêm cho tôi một thằng bạn như thế này. Không có hắn tôi đã chẳng đủ bóng đêm sao?
10.
Một bữa bác gái đi bán, bé Phượng đi học. Thằng Y theo thuyền đi chơi sông. Chỉ có chị và tôi ở nhà, hôm đó chị không có tiết dạy. Tôi đang thẩn thơ trước sân thì chị gọi:
- Z, vào đây.
Giọng chị vừa hớn hở, vừa dè dặt.
Tôi vào. Chị đang ngồi bên giường, trên tay là chiếc hộp bằng đá màu trắng. Tôi sởn gai ốc.
- Chuyện gì vậy chị?
- Ngồi xuống đây.
Mắt chị long lanh. Tôi thấy đôi tay chị hơi run.
- Chị cho Z xem cái ni.
Chị nhìn xuống chiếc hộp, tôi nhìn theo. Những ngón tay chị âu yếm miết theo từng đường viền của nắp hộp. Rồi chị nhìn vào mắt tôi:
- Không hiểu răng chị làm việc ni. Nhưng chị biết chị phải nói bí mật của chị cho một ai đó. Nếu không thì chị không thể sống được.
Giọng chị gần như muốn khóc. Nhưng đôi mắt thì sáng lên những tia kỳ lạ. Chị làm tôi hình dung một người con gái trinh trắng quyết định hiến dâng đời mình, không vì lẽ gì cả, chỉ vì một thôi thúc duy nhất là được hiến dâng để thấy tính nữ của mình trong sự hiến dâng ấy.
- Không biết vì sao chị chọn em. Và tại sao là lúc ni. Nhưng chị có linh cảm nếu không phải là em, không phải trong sáng ni, thì không bao giờ có ai cả.
Suốt cả quãng đời sau này, những lời ấy cứa nát tâm can tôi. Nhiều đêm đang thiêm thiếp bỗng giật mình tỉnh dậy, mồ hôi túa ra lạnh tóc.
Nhớ nghe Z, nếu không phải là mi, không phải buổi sáng hôm ấy, thì bí mật của chị mãi mãi là bí mật. Và mi sẽ là tội đồ nếu mi không được chọn.
11.
Có những khuya ở đó, nửa đêm tôi quờ tay sang thì không thấy Y nằm cạnh. Cũng không lạ gì hắn nên tôi lại thiếp đi.
Để rồi trong giấc ngủ chập chờn gần sáng, chạm sang người Y thấy lạnh toát.
12.
Nhiều năm sau này trở về Phước Tích, bác gái đã già, nhớ nhớ quên quên.
Bé Phượng ngày xưa đã thành cô giáo, như chị Hạc ngày trước. Nhưng ánh mắt không còn như xưa. Cứ như luôn chực sẵn một cơn giông đêm trong đôi mắt ấy.
Tôi không bao giờ gặp lại chị Hạc. Dường như sau khi tiết lộ bí mật với tôi, chị không còn gì để giữ cho riêng mình.
Cứ thế mà trôi đi.
13.
Một lần, về lại phòng trọ trên Huế, khi đang uống rượu, thằng Y nhìn tôi bí ẩn:
- Mày biết những khuya ở làng tau đi đâu không?
Tôi lắc đầu. Mi như con ma xó, ai biết đi đường nào.
- Tau ra cây đa bến Lò.
- Làm gì?
- Gặp nường.
Tôi tròn mắt nhìn Y. Ai?
- Nường cung nữ tự trầm đó.
Trước khuôn mặt hác hốc của tôi, Y kể. Cứ gần khuya đêm rằm là nường về. Tau thường ngồi chờ dưới gốc đa. Nường đi quanh quẩn bãi ngô, rồi xuống gần bìa sông, ngồi khóc thầm. Xong thì hát. Tau đoán là mấy bài ca của cung tần hồi xưa…
Y cứ kể, tôi cứ nghe. Không biết nên tin hay không. Có thể hắn đã phóng tưởng những thiếu nữ trong tranh của hắn thành hình ảnh người cung nữ đã tự vẫn mấy trăm năm trước.
Cùng bạc mệnh như nhau.
14.
Chị Hạc nói:
- Chị không biết bắt đầu từ đâu. Thực ra, Z ạ, đây không phải là lần sống duy nhất của chị. Đừng hỏi, để chị kể. Từ nhỏ đến giờ, chị đã chết rất nhiều lần. Chết trong đêm và sống lại buổi sáng. Có lẽ gần trăm lần như rứa. Em không hình dung được chịu đựng việc đó như thế nào đâu.
Chị nhìn ra ngoài sân:
- Lần đầu tiên là hồi chị học lớp 5. Ba chị còn sống. Đêm đó đi ngủ. Nửa đêm thì chị thấy khó thở. Không phải sốt. Người chị lạnh dần. Nằm bên cạnh mẹ mà chị không thể gọi được. Không còn cảm giác chi ở tay chân nữa. Chị nằm đó, bên cạnh mẹ mình nhưng cách xa hai cõi. Nước mắt cứ trào ra. Sợ hãi và cô độc kinh khủng. Lúc đó chưa biết chi về cái chết. Rồi chị cảm nhận nó đến. Không phải xâm chiếm dần dần. Nó ập đến. Nhưng không giống như cơn lũ ào ạt. Một khoảnh khắc vô tận. Rồi chị thấy mình lơ lửng giữa nhà, nhìn chính mình đang nằm trên giường, xanh mét. Lúc đó chị mới biết mình đã chết. Nằm trên giường chỉ còn là cái xác không hồn. Chị sà xuống lay mẹ dậy, nhưng không thể. Chị qua giường của ba, tìm cách lay dậy, nhưng cũng không được. Cứ rứa, chị lơ lửng. Và khóc.
Rồi chị la đà bay đi. Chị cũng không biết bay đến đâu. Xung quanh toàn khói. Không một tiếng động. Không một ai. Chỉ một mình chị bay đi. Z ạ, sau ni chị mới biết, cô độc là thể tính của chúng ta, sống cũng vậy mà chết cũng vậy. Luôn chỉ có một mình.
- Thế rồi…?
- Rồi chị tan đi trong khói.
- Nhưng…?
- Ừ, đến chừ chị vẫn không hiểu. Sáng đó ba mẹ lay dữ lắm chị mới tỉnh lại. Cảm thấy cơ thể mình lạ lẫm, cứ như trong một thân xác khác, phải mất mấy ngày mới làm quen. Lúc mới dậy vẫn còn lạnh toát. Mẹ phải lấy dầu nóng xoa khắp người.
- Bác gái bảo bác biết chị làm gì trong chiêm bao.
- Không biết đâu. Chị lắc đầu cả quyết. Và mỗi một lần sống lại như rứa, trong tay chị là một viên giống như đá, màu đen. Sau này nhiều quá, chị phải sắm cái hộp ni để giữ.
Tôi im lặng. Câu chuyện này vượt quá sức chịu đựng của tôi.
- Z có hình dung được không? Chết đi sống lại gần trăm lần như rứa, chị không còn gì để sống nữa. Nó vắt kiệt chị. Chị sợ lên giường mỗi đêm. Chị sợ thức dậy mỗi sớm. Chị sợ những chiêm bao. Sợ cả khi lên giường mãi mà vẫn còn tỉnh thức. Chị sợ ngủ vì nó đến, nhưng cũng sợ thức vì sẽ biết nó đến.
Chị không khóc, nhưng tôi khóc. Tôi nắm bàn tay chị, chị dịu dàng xiết tay tôi. Rồi chị cười:
- Chị biết sẽ không thể một mình chịu đựng câu chuyện ni. Chị phải kể cho ai đó nghe, nhưng chờ miết gần hai mươi năm mà không gặp. May mà có Z.
Tôi nghiến chặt răng để nước mắt không trào ra nữa. Tôi có thể giúp gì cho chị? Tôi phải làm gì?
- Không cần phải làm chi hết. Chỉ cần Z giữ giùm chị chuyện ni. Rứa là đủ rồi. Rứa là chị có thể sống thêm chút ít nữa.
Buổi sáng đang nắng bỗng kéo âm u. Gió giông ùa về mù mịt. Một ánh chớp nháng chói lòa giữa bầu không.
Tôi rùng mình. Chị lại siết chặt tay tôi, ra dấu vỗ về.
- Rồi sẽ qua thôi em. Tất cả chuyện ni. Cả chị. Và em. Cũng sẽ qua thôi.
15.
Y sốt triền miên mấy ngày sau một lần về Phước Tích. Tôi phải gọi mấy đứa bạn bên Đại học Y qua chăm. Cuối cùng hắn cũng tỉnh lại, người xanh rớt.
Mở đôi mắt sưng húp vì những cơn mê triền miên, Y nhìn tôi, ánh nhìn vô hồn, giọng khô khốc:
- Nường đi rồi, Z ạ.
Tôi không nói gì, đưa cho Y cốc nước. Hắn gạt ra, thều thào:
- Nường nói là nường không bao giờ quay lại nữa.
Hắn gượng ngồi dậy nhưng lại nằm vật xuống, nói như mê sảng:
Rồi ngày cũng hết. Ngựa cũ không về Đồi Hồng. Thuyền xưa chẳng quay lại Bến Khuyết. Chỉ còn mi với bài kinh tụng dở. Chỉ còn mi với những cái bóng chết, những dấu chân chết, những ánh mắt chết…
Giọng Y nhỏ dần, nhỏ dần rồi im bặt.
16.
Hai thằng mượn một chiếc xe máy chạy về Phước Tích sau khi nghe cuộc điện thoại của bé Phượng:
- Chị Hạc đi rồi.
Hôm đó nắng nhạt. Xế chiều. Những ngọn gió uể oải lùa qua mấy khóm lau ven bờ Ô Lâu.
Dựng xe trước sân, hai thằng ào vào nhà. Bác gái ngồi thẫn thờ, tay còn cầm cái chày giã tiêu, ánh mắt như hóa đá.
Bé Phượng kể:
- Ăn cơm trưa xong chị thay bộ áo dài trắng, cầm cái hộp trắng. Mẹ đang mệt nằm trên giường, hỏi đi mô vì hôm ni chị không có tiết trên lớp. Chị nói ra ngoài có chút chuyện. Chị nói em chăm mẹ nghe Phượng. Rồi chị đi. Em thấy chị không dắt xe ra nên ngạc nhiên, cứ nghĩ ai đến đón chị. Vừa quay vô định nói mẹ, khi nhìn ra thì không thấy chị nữa. Em ào ra ngõ, kịp thấy bóng áo dài thoáng cuối đường rẽ xuống sông. Em chạy theo, nhưng đến bến Lò thì không thấy chi hết. Em dòm miết mới thấy mờ mờ bóng áo dài trắng giữa dòng…
Kể đến đó thì Phượng òa khóc.
Tôi khuỵu xuống. Hôn mê.
Mãi mấy ngày sau cũng không tìm thấy chị. Chính quyền xã tuyên bố mất tích vì không có chứng cứ để nói chị tự vẫn.
Hàng xóm qua lại hỏi thăm rồi cũng thưa dần. Ai cũng nghĩ chị đi đâu đó rồi quay về. Chỉ bốn người chúng tôi biết là chị đã bỏ chúng tôi đi, đi mãi.
17.
Trước lúc lên lại Huế, Y và tôi ra bờ sông, nhìn về cuối dòng Ô Lâu.
Trời chiều, khói sóng lên chờn chợn.
Cuối tầm nhìn, chỉ thấy lau lách và mơ hồ một hình bóng bay đi.
H.N
(TCSH379/09-2020)
PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.
HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!
HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm... Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.
NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.
VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.