LỮ MAI
- Chú nói với mày một bí mật…
- Thím Dinh ngoại tình phải không?
Minh họa: Phan Thanh Bình
Cuộc đối thoại của chú cháu tôi diễn ra chưa bao lâu thì chú qua đời. Bất ngờ, ráo khô, như thể một cơn gió trời độc địa đã cuốn chú đi, đã lau khóe mắt những người còn sống. Đám tang nhẹ nhõm hơn tôi tưởng. Toàn người là người, chủ yếu dân tứ xứ. Không khí bung biêng, váng vất. Bà nội tôi sau cơn ngất, nằm co phòng tối, mắt nhìn ngói âm dương, miệng lẩm nhẩm cầu kinh. Tôi vốc từng nắm đất rải lên nấm mồ, hệt hồi nhỏ vẫn rải cát xóa những gì chú vẽ. Lời chú, như vẫn thầm thĩ tinh nghịch bên tai tôi: “Tao nhớ hết trong đầu rồi, mày xóa phỏng ích gì?!”
Dòng họ nhà tôi, đời nào cũng có một người xem tử vi, gần nhất là chú. Chú hơn tôi vài tuổi, học trên vài lớp, cả thời đi học chẳng phát tiết gì đặc biệt. Dáng chú dong dỏng cao, da hơi trắng xanh, cặp lông mày rậm. Hồi nhỏ, khi lũ trẻ làng chúng tôi mải mê đánh chắt chơi chuyền, chơi khăng đánh đáo thì chú thui thủi góc riêng, vẽ que tre lên nền đất. Những nét cong nét thẳng chằng chịt, kí tự khác thường. Chẳng ai hiểu nổi, chú không giải thích gì thêm. Tôi thích nhất phá bĩnh chú. Tôi sẽ chạy chân trần ra bờ sông, vốc đầy vốc cát để xóa sơ đồ kì bí. Chú luôn có điệu ngước nhìn tôi, bông đùa, khinh khỉnh: “Tao nhớ hết trong đầu rồi, mày xóa phỏng ích gì?!” Ai nấy đều bảo tôi giống chú, từ dáng vẻ đủng đỉnh, kiêu bạc, chẳng coi ai ra gì. Có thể vì thế mà tôi thân với chú nhất nhà. Như hai người bạn. Chú cháu tôi luôn thấy chính mình mỗi khi soi bóng người kia.
*
Lại nói về thím Dinh, người đàn bà đẹp lẫy lừng. Thím bằng tuổi chú, mười tám đã nên duyên vợ chồng. Chú xem tử vi cho người đời từ bấy, thím cơm bưng nước rót chăm chồng, trông con. Ngày chú cưới vợ, tôi còn học cấp ba, lúi húi dọn rửa hết mâm bát này đến mâm bát khác bên bể nước.
“Cô dâu đẹp lắm nhá!” Xời, ai chứ thím Dinh cả làng lạ gì, cứ làm như lần đầu trông thấy. Thím người làng bên, bố mẹ mất sớm, từ nhỏ ở với chú dì, học chung trường chú cháu tôi. Mới cấp hai, thím đã cao vượt đám bạn hẳn cái đầu. Tóc thím không dài lắm, chỉ chớm vai, bồng bềnh, mái trước gợn sóng phô ra vầng trán cao rộng, sáng láng. Thím bỏ học nửa chừng, thầy cô tiếc mãi. Cứ đắn đo sao con bé thông minh hiền thục không cố gắng chút nữa để mai sau bằng bạn bằng bè. Đành rằng hoàn cảnh éo le, nhưng trường lớp nhà quê, đầy đứa khổ hơn chán vạn. Thím làm cô dâu, chẳng cần điểm trang vẫn đẹp lạ thường, vượt mọi đỉnh cao chuẩn mực. “Đẹp, mài ra mà ăn được à?”, tôi hờn mát khi mẹ không ngừng xuýt xoa khen thím dâu. Bên nội, bố tôi có bảy anh chị em, thím Dinh là dâu út. Người mà theo bà nội tôi từ hình tướng đến tính tình không chê đâu được. “Nhà này thừa mứa của ăn của để, dâu con đẹp người đẹp nết, thêm sang khắp xóm làng”, giọng bà nội thị uy khiến người người lạnh gáy.
Thì đấy, đẹp cho lắm vào nên mới ngoại tình. Đàn bà mũi cao, môi ướt, mắt lúng liếng, sinh đẻ vài ba bận vẫn ngời ngời, không ngoại tình mới lạ. Thím ngoại tình lúc nào, tinh tường như chú tôi còn chẳng tài nào biết thì ai bắt tận tay day tận mặt được. Ngày ba cữ, người đàn bà ấy vẫn cơm nước đều đặn, trà nước tiếp khách, lo chuyện học hành ăn uống vui chơi cho ba đứa con. Bà nội tôi mắc chứng khó ngủ, trằn trọc ngày này qua tháng nọ. Đêm đêm, thím ngồi cuối giường xoa rượu địa liền vào lòng chân lòng tay bà, thỉnh thoảng trông chừng kê lại cái gối mây bị lệch khỏi mái đầu bạc trắng. Bà tôi chỉ ngủ yên khi có thím cận kề. Vậy mà sau lễ cúng bốn chín ngày chú, thím biệt tích. Ba đứa con, toàn bộ tài sản, tiền bạc, trang sức, xe cộ… tịnh không mang theo gì. Điều đó càng khiến tôi tin, thím vì tư tình mà bỏ mặc gia đình, cốt nhục.
- Để xem cái nhà này, còn ai khen bà ấy đẹp người đẹp nết nữa không!
- Mày vừa vừa cái mồm, đừng tưởng chú út cưng mày nhất mà tao không cho ăn một gậy!
Bố sừng cộ với tôi vì lời cạnh khóe thím Dinh. Nhưng tôi biết, cả nhà, cả họ, cả làng, ai cũng nghĩ hệt mình. Chú mất năm ba mươi tám tuổi. Vào một chiều cuối hè. Như những lần đi chơi tennis về, chú đỗ ô tô đầu làng, đi bộ huýt sáo ngang qua nhà tôi mới về nhà mình. Thấy chú, thím bỗng lí nhí: “Mình ơi! nãy em vừa thấy núi cựa!”. Câu nói khiến chú giật thột, kinh hãi, chỉ tay thẳng mặt thím: “Cô rủa tôi chết để theo trai phải không?”
Chú mất chừng hai giờ đồng hồ sau đó. Trên chiếc võng mắc ngoài lầu hóng gió của căn biệt thự lọt thỏm giữa làng quê, tư thế nhàn hạ ung dung hệt mỗi chiều nằm đọc sách chờ thím đón ba đứa con đi học về sẽ cặm cụi nấu cơm.
Ngôi làng nhỏ của tôi lọt thỏm giữa núi đồi. Quả núi đầu làng tên gọi núi Cha, người làng qua đời sẽ chôn cất ở đó. Sau khi cải táng, từ núi Cha, hài cốt được chuyển về núi Ông Voi mạn cuối làng, cạnh dòng sông Mã. Có lần, vào buổi sáng tinh sương đúng đợt nghỉ hè, khi đang đi chơi với đám trẻ, cả chú và tôi đều sững sờ thấy núi Cha cựa mình. Chỉ chú cháu tôi nhìn thấy. Trưa ấy, làng có đến hai người chết. Một cụ ông ốm dầm dề nhiều ngày. Một thanh niên là cháu họ cụ lúc cùng thanh niên làng đi đẩy xe tang từ sân hợp tác xã về nhà, giữa đường xe chạm vào dây điện hở trần, tất cả bị điện giật, duy một người chết.
*
Tôi ngồi mé hiên, tay bấm hờ một nhánh cỏ dại, nguệch ngoạc vẽ hình thù vô nghĩa trên nền gạch. Đầu óc tôi không nghĩ được gì. Cũng chẳng khóc nổi. Đâu đó vẫn dáng vẻ khoan thai của chú quanh đây. Chú thích mặc bộ đồ trắng thẳng li, đầu đội mũ bê rê, chân xỏ giày tây bóng loáng. Chú xem tử vi từ năm mười tám tuổi, khách thập phương đổ về nghìn nghịt. Không chỉ cơ ngơi gia đình vững chãi mà họ nhà tôi được cả vùng kiêng nể. Của cải chất ngất đều do người đời tự nguyện biếu tặng. Chú từng nói, lẽ ra, đến đời con cháu, người được chọn để nắm giữ những tấm sơ đồ bản mệnh là tôi. Nhưng từ thẳm sâu, tôi đã khước từ trọng trách ấy.
Có lần, tôi đang ngồi mé hiên như thế, bà khách lạ rú lên: “Ối thầy ơi! lạy thầy, quả đúng lão chồng con cuỗm sạch tiền bạc theo con nặc nô ấy”. Giọng chú âm âm, kiêu hãnh: “Nhà người, không chỉ mất mát thế đâu…”. Lại vẫn giọng người đàn bà chua xót: “Lạy thầy! thầy phán giúp, con trai con có sống nổi không?” Thì ra, con trai nhà ấy đang điều trị sau tai nạn giao thông, tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Khoảnh khắc bà khách nước mắt giàn giụa, ngó vào nhà, tôi thấy thím Dinh đứng im như tượng phía bàn thờ, đôi tay gầy chắp lại thành kính, run run.
- Chú biết trước bà ấy sẽ thế, còn cưới xin làm gì?
- Ai tránh được số trời? Cái đấy mày phải rõ…
Chú nói, chú biết thím ngoại tình, chỉ bằng cảm giác. Hệt tôi. Tấm lưng muốt mềm suốt ngày lom khom dọn dẹp kia hẳn có đứa chạm vào rồi. Chú ngửi thấy mùi đàn ông lạ mỗi lần thím ngang qua. Chú nhận ra ánh mắt chòng chọc của những con đực găm vào môi, vào mắt vợ mình.
*
Tôi lên đường vào Nam, bởi hình ảnh sơ đồ ai đó vẽ vời trong giấc mơ. Giông giống bàn tay chú. Rằng thím Dinh đi đến một nơi như thế, với một người đàn ông như thế…
- Em điên rồi! Em điên hết lần này tới lần khác, anh bỏ qua. Giờ thì không thể!
Thịnh bỏ mặc tôi thu lu trong căn phòng trọ giữa phố xá ồn ào. Tôi không rơi giọng nước mắt nào cho cuộc tình ấy. Dường như, chuyện tôi đi tìm thím Dinh chỉ là cái cớ cho sự rời bỏ. Tôi qua tuổi ba mươi được dăm ba năm. Gia đình không ngừng điệp khúc “chồng con, ổn định”. Thịnh cũng tình trạng tương tự. Chúng tôi dạt vào nhau sau những cuộc né tránh. Anh dân công trình, thuê phòng trọ cho cả hai nhưng vài tháng ghé được một lần. Lắm hôm, ngày nghỉ, đang nằm dài trên giường, tôi vớ điện thoại gửi tin nhắn: “Sao anh còn không vào nhà đi!”. Tiếp đó nghe tiếng bước chân gấp gáp. Không phải Thịnh bước vào nhà, mà trốn chạy. Từ miền núi về, anh muốn tạo bất ngờ cho tôi, tôi lại cảm giác rất rõ Thịnh đang chơi trò ú tim quanh đây, ngốc nghếch như con nít. Thịnh luôn nói, cảm giác tôi đoán biết được mọi chuyện khiến anh không thoải mái, thậm chí sợ hãi ít nhiều. Mỗi lần thế, tôi hay nghĩ đến thím Dinh. Thím có phiền lòng, sợ hãi khi sống bên chú không? Giá thím cứ than vãn, phản kháng có khi lại tốt. Đằng này quanh năm suốt tháng thím chỉ lặng lẽ, thành kính chắp tay.
Tàu khởi hành giữa đêm. Ghế cạnh tôi, người đàn ông trẻ tuổi vừa ngồi. Lúc mới lên tàu, người ấy còn thò cổ ra mạn sân ga, gọi vọng xuống: “Chị Doanh, em đi nhá!”. Người phụ nữ bên dưới tay cắp túi xách, tay kia đưa lên vẫy vẫy. Tôi thoáng giật mình.
- Chị Doanh, xin hỏi trong toa ai tên Doanh?
- Tôi đây!
- Cậu Nhương gửi chị cái này…
Nhương là em họ tôi, nhân viên trên tàu. Về vai vế, Nhương gọi bố tôi là bác ruột, chú út là chú của tất cả chúng tôi. Đám tang chú, cậu chỉ xin nghỉ được vài hôm rồi lại mải miết trên những chuyến tàu. Tôi chìa tay nhận gói giấy báo nhỏ mềm âm ấm. Chẳng cần mở cũng biết là xôi khúc. Cậu em luôn nhớ sở thích của tôi dầu xa nhà đằng đẵng. Tôi không hề biết Nhương có đang trên chuyến tàu này không, ở toa đầu hay toa cuối? Gói xôi chắc hẳn được mua lúc tàu còn trong ga. Đang vẩn vơ, một giọng người chào hỏi: “Cô thật giống chị gái tôi”.
Tôi quen Du như thế. Trong mơ, tôi nghe anh ta gọi : “Doanh, dậy xem núi sắp cựa này”. Tôi mở choàng mắt, người đàn ông lạ đang dõi đăm đăm qua cửa toa tàu, bên ngoài mịt mùng cát trắng.
- Cô ngủ suốt gần hai ngày, thỉnh thoảng hé mắt nhìn cửa sổ rồi lại ngủ. Em họ cô nãy ghé toa, tôi tính gọi thì cậu ấy bảo cứ để cô ngủ.
- Ừ, bình thường tôi có bao giờ ngủ giấc dài thế đâu…
Tôi thấy mắt mình nhòa đi, những đồi cát cựa quậy, dịch chuyển đầy hư ảo dưới hàng phi lao khô rát. “Lạy thầy! thầy phán giúp, con trai con có sống nổi không?” Câu hỏi của bà khách ngày nào chợt vẳng bên tai tôi. Đêm ấy, cậu ta trút hơi thở cuối. Những tưởng mình đã chai sạn hoàn toàn trước những lời phán quyết sống- chết-mất-còn của chú trong căn nhà bung biêng hương khói. Thế mà chiều ấy tôi lạnh người trước khoảnh khắc bà ta nhìn chú tôi bằng ánh mắt cầu cứu, bằng con tim sẵn sàng khước từ những cái lắc đầu. Chú chỉ im lặng. Riêng thím Dinh, đuôi mắt khép chặt, thánh thót lệ dài.
- Này, ngoài kia sao lạ thế nhỉ?
- Tàu đang đi qua vùng bão cát, cát chất cao thành núi đồi. Từ núi đồi này chuyển sang núi đồi nọ. Cứ có gió là dịch chuyển. Là núi cựa. Cô thấy lạ chứ tôi quen rồi…
*
Thực ra, chị gái Du đã qua đời. Du nói, trên toa tàu hôm ấy, mỗi tôi nhìn thấy chị em họ vẫy chào nhau. Du để ý tới tôi sau cái giật mình nghe ai gọi trùng tên. Ngày Du còn là một cậu bé, hai chị em đã kẻ Bắc người Nam. Du chỉ kịp nấc lên “Chị Doanh, em đi nhá!”. Câu chào trẻ con. Câu chào không đơn giản. Là bởi sau đó, Du sống cùng bố, chị gái ở với mẹ. Cuộc ly hôn ráo hoảnh, chỉ trẻ con thương tổn ngập sâu. Du muốn biết, mẹ anh đang lưu lạc nơi đâu, chị anh được an táng phương nào sau lá thư cuối cùng nhòe nhoẹt nét chữ mẹ, thông báo chị Doanh đuối nước qua đời. Năm đôi lần về Bắc, anh qua ngõ cũ, lùng sục khắp thành phố chật chội, từ bà hàng nước đến ông xe ôm năm xưa vẫn nhớ Du, ấy vậy mà tung tích người nhà bặt tăm.
- Sao anh nghĩ tôi có thể tìm được mẹ và chị gái cho anh?
- Chỉ là cảm giác vậy thôi. Thật xin lỗi nếu điều đó phiền cô…
Du quả quyết, nếu tôi không tin, không giúp, tôi đi đâu anh ta sẽ theo đó. Anh giờ đã tạm rút khỏi vị trí điều hành, chỉ còn cổ phần lớn ở công ty vận tải đang ăn nên làm ra, có những người anh em kết nghĩa tin cậy như ruột thịt.
- Cô cứ sống trong căn hộ này, đi đâu có lái xe đưa đón, thêm yêu cầu gì mong cô gọi tôi. À, tôi gửi cô khoản phí, để tiện chi tiêu. Ở nơi xa lạ, điều ấy là cần thiết.
Lúc này, dáng dấp Du đúng vẻ doanh nhân thành đạt, khác hẳn hôm trên tàu. Tôi ngạc nhiên tại sao thay vì book vé máy bay hạng sang, Du lại nhảy tàu. Rồi chợt nghĩ, có lẽ vì nỗi ám ảnh sân ga. Lời Du nói trùng với điều chú tôi luôn trách móc, rằng lẽ ra tôi được chọn tiếp nối cái nghề xem tử vi nổi danh của dòng họ, thế mà lại khước từ. Sự xuất hiện của Du, tréo ngoe như có bàn tay vô hình sắp đặt. Như thể từ thế giới xa xôi kia, chú tôi cầm cọng cỏ vẫn vẽ vòng nguệch ngoạc, đặt trọn vào tay tôi định mệnh cuộc đời.
*
- Ngót tháng trời, chẳng chút manh mối hay cảm giác nào rõ rệt. Tôi gọi anh đến đây để trả lại tiền. Tôi về ngoài Bắc, còn nhiều công việc dở dang…
- Kìa cô Doanh, ngót tháng trời thấm đâu với mấy chục năm vô vọng. Tôi xin cô…
Du nhìn tôi, ánh mắt khẩn cầu.
- Anh nói, mẹ và chị anh trước đây ở lại ngoài Bắc, nhưng tôi cảm giác họ đã chuyển vào Nam và chị anh mất trong này…
- Bố con tôi chuyển nhà rất nhiều lần. Ông ấy lô đề cờ bạc, lấy hai bà vợ đều li dị cả. Bạn thân tôi cũng nói, có lẽ mẹ tôi sống thật gần gặn hai bố con mới gửi thư được cho tôi vào những giai đoạn quan trọng nhất, đau đớn nhất cuộc đời bà. Nên tôi hay nghĩ, biết đâu sau chuyến tàu của hai bố con tôi, là chuyến tàu của mẹ và chị Doanh. Ở đây, tôi không họ hàng thân thích, vẫn về lại ngoài kia kiếm tìm. Ít ra, nhìn phố quen, mặt quen, còn chút niềm an ủi.
Du trẻ hơn tôi năm tuổi, sống trong căn hộ cao cấp, đối diện tòa nhà anh đưa tôi đến ở. Tôi đến hôm trước, hôm sau bảo vệ, lễ tân đã nhẵn mặt.
- Cậu Du chưa bao giờ đưa ai về đây. Cậu ấy bảo, căn hộ rồi sẽ sang tên cho mẹ và chị gái. Chẳng hay, cô là chị cậu Du?
Cô tạp vụ khu nhà hay nhận dọn dẹp ngoài giờ trong căn hộ của Du bắt chuyện. Tôi không từ chối, chẳng xác nhận. Là ai cũng thế thôi. Tôi vào đây để tìm thím Dinh, để trả lời câu hỏi còn lửng lơ cho chú tôi nơi phương xa nhắm mắt.
Đêm ấy, lại thấy chú về. Vẫn dáng vẻ thong dong, kiêu bạc. Chú ngồi đối diện tôi, vắt chân chữ ngũ, ngậm xì gà. Lúc thiên hạ đến lạy lục van xin hay lúc nhà vắng vẻ, chú đều thảnh thơi như thế. Đời chú, chỉ niềm chờ đợi gần như duy nhất là ngóng tôi ở xa về. Chú không coi tôi là cháu gái. Chú chuyển điếu xì gà sang tôi như trao cho thằng bạn thân nào đó. Thím Dinh hoặc đứng bếp, hoặc chăm con. Có lần, trong nhà chỉ còn tôi và thím, thím bâng quơ: Ngày sau, Doanh yêu và lấy người trẻ lắm!
Câu nói găm vào đầu tôi như gai sắc. Tôi đem mách chú. Người đàn bà này thật chẳng vừa. Hẳn lòng tương tư trai trẻ. Chú trẻ, nhưng bằng sao đám thanh niên chưa vợ. Con trai cái ông chức sắc trong vùng toàn lấy cớ đến họp câu lạc bộ tennis với chú để lén nhìn thím Dinh. Hắn dán mắt vào tấm lưng nuột nà sau làn áo lanh xốp mềm gờn gợn nếp nhăn sợi vải. Thím như có mắt đằng gáy, biết hết và mặc kệ. Thím trêu ngươi đàn ông bằng nhan sắc ngời ngời.
*
- Thưa ông, chuyện chẳng phải đã vô phương cứu chữa. Nhà tôi nhắn ông thế này…
Nhiều lần, thím Dinh rảo bước theo chân khách. Hầu hết đó là những người đang gặp tai ương. Người đàn ông to cao vạm vỡ kia cũng thế. Gần hai mươi năm sống với vợ, mỏi mòn cầu tự mụn con. Cuối cùng, lúc mọi chuyện đúng theo ý muốn thì ca sinh nở không thuận, ông buộc phải lựa chọn một trong hai con người. Qua nỗi im ắng mướt mồ hôi, tiếng trẻ sơ sinh khóc oe oe vọng khắp hành lang bệnh viện. Người hộ lý mang con trao ông kèm bức thư vấy máu: “Tôi đã không mang lại cho mình hạnh phúc đủ đầy, tôi thật xin lỗi. Tôi biết mình sẽ chọn tôi. Nên bức thư này sẽ giúp con chúng ta ở lại với mình. Tôi không có gì ân hận. Xin các bác sĩ cứu con tôi, đứa bé không có tội và tôi có quyền định đoạt sự sống của con mình!”.
Đứa bé ấy lớn thành cậu bé mười lăm tuổi, rồi lâm trọng bệnh. Ông ta ôm đầu tuyệt vọng khi thấy chú tôi lắc đầu. Chú phẩy tay ra hiệu đi về mặc ông quỳ sụp xuống khẩn cầu: “Xin thầy xem lại…”.
Vài tháng sau lần thím chạy nói câu gì đó với theo ông khách, ông ta và đứa con trai tung tẩy đến nhà chú, lạy từ ngoài ngõ lạy vào. Chú tôi lại phẩy tay, nhẹ như cọng cỏ. Mắt thím nhắm hờ, lại tuôn dòng lệ, tay chắp run run. Có gì đâu mà xốn, chuyện ngày nào chẳng thấy. Chú chỉ ra cách cứu người, thiên hạ mang ơn, gì đâu mà run. “Thím mày hâm bỏ mẹ!”, câu nói của chú làm tôi bật cười, rơi điếu thuốc trên môi.
*
Du ghé thăm tôi, mang theo vài tấm áo dày. Cậu giải thích, đừng tưởng ở phương Nam không lạnh. Sau những trận mưa xối xả, khí trời hiu hiu. Dân trong này thấy bình thường, phong phanh áo cộc, người phương xa sẽ gai người, chóng mặt, cảm sốt như chơi. Quả đúng tôi đang chóng mặt. Không phải bởi thời tiết. Mà vì những giấc mơ. Đã vài tháng trôi qua, không một manh mối nào về thím Dinh. Ba đứa em họ tôi ở quê, cả nhà phân công đón đưa, chăm sóc, dỗ dành.
- Cô uống chút nước đi, sẽ tỉnh táo hơn… Chiều nay tôi rảnh việc, nếu cô đồng ý, ta dạo loanh quanh cho thoáng.
Chúng tôi nhìn mãi đám cỏ lau trắng rùng rình trong gió. Đây ngoại ô thành phố. Chỉ một thời gian ngắn nữa, đám cỏ dịu nhẹ kia sẽ được phạt đi, thay thế bằng nhà lầu, cao ốc, trung tâm thương mại sầm uất. Công ty vận tải của Du mở rộng sang cả lĩnh vực bất động sản. Khoảnh đất trước mặt chúng tôi thuộc dự án sắp khởi công. Mặt trời đằng Tây thẫm lại, đỏ ối, mờ nhòe. Du lại lái xe chở tôi men theo con đường nhỏ. Xẩm tối, muỗi vo ve loạn xạ, thiêu thân lao vào kính xe đen kịt. Càng lúc, càng vắng vẻ.
- Anh đưa tôi đi đâu thế này?
Du không đáp, thận trọng nhìn gương chiếu hậu. Lạnh người, tôi khoác thêm chiếc áo Du đưa hồi chiều. Xe lách vào xóm nhỏ, nghèo nàn bên dòng kênh đen ngòm vẩn mùi xú uế rồi đỗ xịch lại.
- Cô Doanh xuống xe đi!
Đám trẻ con lóc nhóc từ một căn nhà nào đó trong xóm liều túa ra, vây lấy anh. “Chú! Chú về!”, “A chú Du có người yêu tụi mày ơi!”… Thực lòng tôi thấy rất khó chịu. Chỉ muốn giằng chiếc chìa khóa ở tay Du, bấm mở xe để chui tọt vào đó, vừa tránh muỗi, vừa tránh người.
Trong căn nhà chật chội, trước mặt tôi là người phụ nữ tuổi đã cao, tóc lấm tấm bạc, tay bế một bé gái ngủ say sưa. Nhìn tôi, mắt bà hơi nheo lại, miệng nhoẻn cười ấm áp. Tôi đoán là bà đám trẻ con kia. Đại khái thế. Những cảnh này, ngoài Bắc cũng chẳng thiếu. Nghề nghiệp đưa tôi đến khắp mọi vùng miền, ở đâu cũng đầy rẫy éo le. Bọn trẻ được Du cho kẹo bánh kéo nhau ra ven dòng kênh cấu chí loạn xạ, đứa khóc đứa cười. Nhà còn đúng ba người, không kể đứa trẻ con say ngủ.
- Bác đã nghe Du kể nhiều về cháu. Cháu đúng như những gì bác nghĩ ngợi trong đầu…
- Mẹ, xin mẹ hãy về sống với con. Bọn trẻ, con sẽ lo liệu ổn thỏa…
Tôi bàng hoàng trước câu nói của Du. Du tìm được mẹ từ bao giờ? Sao tôi không hay biết? Người này có đúng là mẹ anh ta…
- Cái thằng, lại dỗi. Đã bảo bác ở mãi đây thôi, vào thành phố làm gì cho ngột ngạt. Cái Doanh ngày xưa đuối nước dưới dòng kênh kia. Chỉ vì thấy một đứa bé giống em mình mà chới với chạy theo đến trượt chân. Bọn trẻ con, đều giống nhau cả. Như mấy đứa bác nhận nuôi đây này. Chị em nó chia lìa sớm quá, chả trách…
Du đã ra ngoài, bước chân hút dần trong đêm. Tôi ngồi ngay gần mẹ anh trong căn nhà vài chục mét vuông phần lớn áo quần, bỉm sữa và sách vở trẻ con.
- Bác mơ mãi, thấy cái Doanh về báo mộng, sẽ có người đàn bà ngoài Bắc vào tìm chồng, hữu duyên giúp mẹ con gặp được nhau. Doanh bảo, bà ấy đẹp lắm mẹ ạ, khác người trần. Mẹ cứ nhớ thế mà nhận mặt.
- Buổi ấy, thằng Du ngồi y cháu lúc này. Nó theo đoàn từ thiện về xóm liều cấp thuốc men thực phẩm. Còn bà ấy, trời xui đất khiến thế nào dạo ngang qua đây, bác nào ở trong nhà thế này đâu, đang cuốc đất vườn gieo ít rau cho bọn trẻ. Bà ta đứng bên đường quở trách: Con trai nhà người, tìm mẹ bao năm, giờ duyên đưa đường nó về đây, sao còn không nhận mặt! Bác lạnh toát sống lưng mới quỳ sụp xuống, ngửa mặt lên trời mà gọi: Du ơi!
- Bác muốn khóc mà không khóc nổi. Đau đớn ngậm mãi vào trong. Tâm can buốt. Thằng Du cũng quỳ sụp xuống. Không bật ra mà khóc được.
*
- Tại sao anh tìm được mẹ, vẫn giữ tôi ở đây? Hay chỉ vì tôi giống chị gái anh?
- Nếu mọi chuyện đơn giản thế, chúng ta đã chẳng gặp nhau…
- Người đàn bà ấy lạ lùng lắm, Doanh ạ. Tôi nghĩ, họ không bói toán, phán đoán gì cả, chỉ là người thấu hiểu những giấc mơ.
- Thực lòng, tôi đã gặp Doanh từ rất nhiều năm về trước. Tôi biết mình sẽ gặp lại Doanh, trên một chuyến tàu.
- Tôi mơ thấy Doanh sống chung với người khác mà không định lấy làm chồng. Thấy cả dáng điệu đỏng đảnh hấp tấp của Doanh bước xuống cầu thang, nhiều lần bị ngã. Căn nhà trọ ấy rõ ràng trong đầu óc như tôi từng ở đó. Bà ấy nói, mọi giấc mơ đều có thật, vỡ từ mất mát vời xa…
- Bà ấy giúp tôi gọi những giấc mơ trở lại. Rằng muốn nhận ra Doanh, chỉ cần chờ cơ duyên tới, người trên chuyến tàu sẽ gọi tên Doanh, như tôi từng gọi một người ruột thịt.
*
Người đàn bà mẹ con Du thường nhắc tới sống cách xóm liều không xa, trong căn nhà nhỏ bé, xinh xắn, hai hàng hoa pháo đỏ rực từ cổng dẫn vào sân. Tôi đi bên Du, chập chờn như mộng.
Người sống đến xin hoa kẻ khuất
Kẻ khuất âm thầm thắp vệt bình minh…
Tiếng người rất quen. Nói mà nghe như hát. Toàn thân tôi đông cứng, mồ hôi vã ra, váy áo xúng xính dài chấm gót chân mà cảm giác nhẹ bẫng như lõa thể. Tôi đã lăn đùng ngả ngửa nếu Du không kịp đưa tay ra đỡ phía lưng. Là thím Dinh. Thím đang nghiêm cẩn chắp tay, mắt vương đôi giọt lệ.
Dân khắp vùng rỉ tai nhau, người đàn bà giỏi tử vi lưu lạc vào đây tìm chồng. Ông chồng tự phụ đến khi sắp chết vẫn cho rằng vợ mình theo trai, trốn mãi vào phương Nam nên tự vẽ sơ đồ tìm kiếm. Ông chết, phong thái vờ ung dung nhưng trong tay còn xiết chặt tấm bản đồ. Nếu không phải đứa cháu gái ông cưng chiều nhất chạm vào thì không ai gỡ nổi. Bốn chín ngày ông, bà vẫn thấy linh hồn chồng đeo đuổi mãi những hồ nghi, thù hận.
Trên bàn, thím Dinh rót đủ ba chén nước từ bao giờ, nguội ngắt. Thím vẫn mặc áo vải lanh nền nã, tóc ngang vai bồng bềnh, chào hỏi tôi như chưa từng xa cách: “Doanh dạo này hơi xanh đấy. Chớ có giảm cân làm đẹp theo các bà các cô! Thím khuyên được chú rồi, ngày mốt thím về với bà và các em…”
Tôi đưa mắt nhìn khắp căn nhà nhỏ, không đồ đạc gì ngoài những chậu hoa pháo đỏ và bức ảnh chân dung tự phụ của chú tôi. Lại nhớ, rất nhiều lần chú lạnh lùng lắc đầu, thiên hạ sụp xuống tuyệt vọng, thím là người kín đáo, rảo bước chạy theo. Lời nói của thím, mở đầu bằng câu “nhà tôi nhắn thế này” thay đổi hoàn toàn tình thế.
Chú ngồi giữa nhà, thần thái vô cảm, chưa thốt nổi lời nào cho những câu hỏi buồn đau của khách thập phương, thím Dinh đã nghiêm trang phía ban thờ, mắt nhỏ lệ vì bi kịch nhìn thấy trước. Là chú tôi cướp công thím hay thím tự lựa chọn làm cái bóng bao dung, phụng sự chồng. Có lẽ, vế sau mới công bằng với thím.
*
- Này Du, em thấy núi cựa!
- Anh cũng thấy thế. Ở nơi đâu mà núi chẳng cựa mình…
Chúng tôi bên nhau như vậy. Ở đời, có bao người đến với nhau vì tin những giấc mơ? Có bao người am tường tất cả vì hiểu những giấc mơ?
Tôi nhiều tuổi hơn Du, nhưng trong mắt Du tôi vẫn là đứa trẻ, cần được chiều chuộng, bao dung. Sau cuộc trở về, thím Dinh già đi trông thấy. Thiên hạ dè bỉu, đi mãi với trai lại nhục nhã trở về nhà. Bố tôi dùng uy quyền anh cả, sẵn sàng cho ai đó người nhà “một gậy” nếu buông lời cạnh khóe thím út. Ít lâu, căn phòng bà nội tôi lại sực mùi rượu địa liền mỗi đêm và những lời rủ rỉ của mẹ chồng, nàng dâu. Không ai minh oan cho thím. Mà thím cũng chẳng cần.
Có lần, ngồi mé hiên, giọng tôi đỏng đảnh: “Tính cháu cứ mưa nắng thất thường thế này, lại chả muốn vào Nam sống bên chồng, liệu Du có bỏ cháu không?” Thím thở dài: “Ai mà biết được! Tự nhìn nhau mà sống chứ. Đàn bà, có chồng nhìn vào chồng, có con nhìn vào con…” Rõ ràng giọng thím, mà như không phải. Điệu bộ ấy hệt bà nội và mẹ tôi… gần gặn, buồn thương, một lẽ rất đời!
Hà Nội, tháng 3/2019
L.M
(TCSH363/05-2019)
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.