ĐÔNG HÀ
Buổi sáng thật xanh và hiền (TCS).
Những ngày mưa mùa đông ở Huế lạnh, hiền từ và dai dẳng. Những buổi mưa ngồi trên ban công căn phòng ấy, nghe tiếng giọt mưa rơi xuống mái, mới tha thiết những buổi sáng thật xanh và hiền năm xưa người con trai ấy đã ngồi nơi đây.
Bức ảnh Khánh Ly tặng Gác Trịnh - Ảnh: dantri
Huế xưa giờ đã xa, không còn nhiều những ngày dịu dàng như thế. Mỗi bước ra phố kiều nữ đã phải quàng “khăn mohamed” trùm kín dung nhan, chàng trai đã nhuộm xanh nhuộm đỏ trên mái tóc. Con người nơi này bắt đầu cười nói rổn rảng. Cái tình trao nhau đã biết nhanh biết vội biết sòng phẳng toan tính cho bằng lòng nhau… Huế không còn nhiều nét cũ khiến người xưa đi đâu đó một hôm quay lại bất chợt thoáng nhói đau lòng. Nhưng can chi, Huế vẫn còn một chỗ…
Một chỗ phía dưới hàng cây long não tự xa xưa xanh mướt an nhiên sáng nay vẫn thật xanh và hiền. Ngồi đây nhìn ra, cây cầu bắc ngang sông như một nét mi ơ hờ khép nhẹ trên đôi mắt người xưa yêu dấu. Vẫn dòng sông chảy thật chậm như muốn chở quá khứ đứng lại, níu lại với thời gian. Đôi ba con chim sẻ vẫn lích rích nhảy nhót trên tàng cây nghe hân hoan một bài tình yêu không cần dịch thành nghĩa.
Và một chỗ ngồi. Ừm. Đôi khi một chỗ ngồi mà sao quá khó khăn trong thời buổi nhân loại kéo nhau qua cầu rầm rầm rộ rộ. Chỗ ngồi đó cần một nét quen, một chút yêu, một niềm thương mến cũ ngồi chờ mình ở đó. Thì về lại đây. Ngôi nhà xưa vẫn chờ đợi bước chân người quen dấu cũ.
Khi ngồi đây mình hình dung, có một ai về ngang qua, bước vào. Phía ngoài kia mưa gió, thì ở đây có chiếc khăn len mềm mại dịu dàng đang chờ đợi để được quàng vào cổ. Ấm như một vòng tay thiết thân để nghe yêu thương giản dị đang dâng lên trong hồn. Chỉ thế thôi là đủ cho một cuộc trở về. Những chiếc khăn không chỉ để quàng vai ấm cổ mà chúng còn làm ấm cả tâm hồn. Bởi với cuộc đời, không phải lúc nào cũng cần vui, mà chỉ cần một chút ấm áp là đủ. Thế thôi.
Nên căn gác ấy, dẫu người cũ đã kéo nhau đi hết, thì những người sau ngày ngày vẫn đến đây. Mỗi nếp sắp đặt vẫn cố giữ lại chút gì đấy của ngày tháng cũ, của dấu tích cũ, của hơi hướm cũ… Cho ngày sau, người xưa sau ghé qua đây vẫn còn bắt gặp chút lưu hương.
Nên một hôm dưới tàng long não xanh um, loài người kéo nhau về đây, nghe lách tách như tiếng chim sẻ nâu ríu rít hôm nào về đây dự hội. Đó là ngày đầu của tháng tư năm trước, trong nỗi nhớ Trịnh Công Sơn đã rời cõi tạm 12 năm, căn gác ấy lại mở cửa. Nhân loại xốn xang ra vô, ánh mắt nhìn vào những chỗ hư không để tìm cho ra nét quen đã từng thấy đã từng nghe đã từng biết… và bồi hồi khi gặp lại dấu vết ố mờ của một chút gì đấy đã từng thoáng qua trong tâm tưởng đang còn bám vào bức tường tưởng chừng vô tri vô giác mà lại thân thiết đến nhường kia. Ngày hôm ấy, những người bạn của thế hệ xưa sau đã bắt đầu mở cửa nơi đã từng ẩn náu của những người bạn thế hệ xưa trước.
Rồi từ đó, nơi đây hằng đêm đã ấm lên ngọn đèn vàng dìu dặt cùng tiếng hát của người ca sĩ liêu trai dắt những người bạn xưa trước về ngồi đâu đó trong tiếng tí tách của giọt cà phê trầm lặng. Nơi đây thành điểm hẹn. Từng đêm dìu dặt. Từng ngày cưu mang. Những tà áo tím Đồng Khánh có lối tìm về tung tăng dưới hàng long não xanh um gợi lại một khoảng trời tha thiết. Nhớ xưa, có một người con gái, trong tà áo màu nâu, mỗi năm mỗi khác, để khi chợt nhớ lại thì hình như tà áo nâu đã cao ngang gối… Mới biết, cái trí nhớ nhỏ nhoi nhưng đủ bao dung cả một thời người ta đã yêu đã nhớ.
Cũng từ đó, những sớm mai, những chiều muộn, căn phòng lại tràn ngập những đuôi mắt reo vui, những tiếng hát hân hoan khi được đứng đó hát lên tiếng yêu thương của một người đã từng ngồi dưới mái nhà này để viết lên cho nhân loại. Tôi nhớ Camille Huyền, cô Tôn Nữ xa xứ khi trở về lại, hát say mê đắm đuối, đầy yêu thương về những câu hát của người nhạc sĩ tài hoa kia đã từng ngồi đây viết. Căn phòng nhỏ chật ních người. Mà lòng tình thì hòa quyện lại với nhau một dịu ngọt khôn cùng.
“Cũng chẳng còn gì giữ lại anh nơi đây ngoài căn nhà này. Ánh cũng đã ở đó. Mỗi ngày dù mưa anh và Ý vẫn gặp nhau để nhấm tí rượu, uống tí cà phê” (30/10/1966)(*). Dòng thư cũ gửi một người yêu dấu cũ bỗng dưng lại trở thành nỗi đồng điệu của hằng bao tâm hồn ngưỡng mộ người nghệ sĩ tài hoa mà đâm ra tha thiết với mối tình của họ. Để rồi, một sớm mai về đây ngồi lại, giở những bức thư người con trai ấy đã gửi cho tình yêu của mình, thì bắt gặp sự giãi bày này. Vâng. Chính căn nhà này, nơi anh đã ngồi, nơi đã lưu lại cái nhìn về dáng vóc của một người con gái, nơi chờ đợi bàn tay gõ cửa của một người con gái, nơi chất chứa những tháng năm tuổi trẻ của những người bạn mà sau này họ đã trở thành sự quý giá của nhân loại, bây giờ, ngày tháng tiếp theo, vẫn đang có những chiếc ghế chờ đợi người xưa trở về, người sau tiếp đến, mà lưu giữ cho nhau một sự đẹp dịu dàng trong lòng thành phố thân yêu.
Gác Trịnh. Sáng thật hiền, 11/12/13
Đ.H
(SH300/02-14)
..............................................
(*) Thư tình gửi một người - Trịnh Công Sơn.
NGUYỄN THỊ THANH SUNGLGT:Bà Nguyễn Thị Thanh Sung sinh năm 1949 tại An Cựu (Huế), cựu học sinh Đồng Khánh, cựu giáo sinh trường Sư phạm Qui Nhơn, dạy tiểu học ở Quảng Tín (Quảng Nam ngày nay). Năm 1973, lấy Bill Fleming cố vấn an ninh tại Toà Lãnh sự Hoa Kỳ tại Huế. Năm 1974, bà theo chồng qua định cư ở Mỹ. Bill vẫn tiếp tục phục vụ trong Bộ Ngoại Giao. Hiện bà sống cùng gia đình tại Potomac, Maryland .
NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Rút từ tuyển tập Hồn mai – tuỳ bút – NXB Thuận Hoá và Công ty Văn hoá Phương Nam phối hợp thực hiện, năm 2008)
TRẦN ĐƯƠNG(Viết theo lời kể của một số cán bộ và sinh viên, học sinh Việt Nam, từng công tác và học tập tại Liên Xô)
LÝ HẠNH Đất trời đã bước vào độ cuối xuân, vẫn còn những cơn mưa bụi lất phất và cái rét dìu dịu thả xuống nhân gian như những sợi tơ trời.
ĐỖ KIM CUÔNG Câu chuyện của 27 năm về trước...
PHƯƠNG LAN LTS: Sông Hương nhận được tin và bài về một phụ nữ "nuôi mộ liệt sĩ" đã 15 năm, nay muốn trả lại cho gia đình của liệt sĩ nhưng không biết nhắn gửi vào đâu. Vì câu chuyện nghĩa cử đầy cảm động này và vì không chỉ là thông tin nên Sông Hương xin in luôn cả bài viết sau đây, mong bạn đọc xa gần, trong điều kiện có thể được thì nhắn tin sớm cho gia đình người liệt sĩ này.
NGUYỄN HỮU THÔNGĐã từ lâu lắm, chúng tôi mới có dịp gặp gỡ đông đủ như thế này. Nhận ra nhau rồi mới giật thót mình nhìn lại; ai cũng tưởng chỉ mới hôm qua, và cái khoảng mơ hồ dẫn đến hôm nay, sao đã làm tóc mọi người bạc đi nhiều thế.
LÊ QUÝ LONGThông lệ cứ mỗi buổi sáng uống xong cốc càphê tôi đến mở phòng tranh. Ngày 1 tháng 11 năm 1999 chừng tám giờ sáng, ngoài đường nước đã lên phủ khắp mặt nhựa. Suốt đêm qua cho đến lúc này trời vẫn mưa to.
ĐỖ KIM CUÔNG Ấn tượng dai dẳng trong tôi mỗi khi nhớ về Huế vẫn là những trận mưa rả rích kéo dài lê thê hết ngày này sang ngày khác. Mưa có khi cả tháng trời. Mưa ngày rồi lại mưa đêm. Có lúc những cơn mưa rào kéo sầm sập như thác đổ. Lúc mưa nổi bong bóng nước. Mưa rừng càng buồn nản hơn.
ĐỖ KIM CUÔNG Cái ấn tượng không lấy gì làm vui vẻ và đẹp đẽ của tôi về chị xảy ra vào những ngày đầu tiên khi tôi trở thành người lính của đại đội 3, K10, thuộc công trường V về trụ bám ở vùng giáp ranh Hương Trà.
ĐẶNG NHẬT MINHCha mẹ tôi là những người Huế. Quê nội tôi ở An Cựu và quê ngoại ở làng Lại Thế. Tôi nghe bà tôi kể: đám cưới cha mẹ tôi là một đám cưới chạy tang.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày thoát ly lên rừng (mùa hè 1966), tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường được Thành ủy cho ở trong một cái nhà lá dựng ở lưng chừng một ngọn đồi sau dãy núi Kim Phụng. Đến bữa có người phục vụ bưng cơm lên ăn. Thật thoải mái, không phải lo sinh nhai, không phải lo giữ lời ăn tiếng nói sao cho hợp pháp, không còn sợ bị bọn mật vụ, CIA đến viếng nhà, đến trụ sở đấu tranh "hỏi thăm sức khỏe".
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGMột hôm nhân rỗi việc, tôi ngồi thả câu nơi một bến đá quen thuộc ven sông Hương. Chỗ này cá nhiều ăn không kịp giật. Bỗng cái phao của tôi trôi đi vùn vụt như thể có người kéo. Tôi vung mạnh tay, một chú cá chép mắc câu nhảy đành đạch trên mặt cỏ. Bất ngờ nó thở hổn hển và nói với tôi bằng tiếng người: rằng nó là con vua Thuỷ Tề, đi tuần thú dọc sông Hương, đã bị tôi bắt được. Nó năn nỉ xin tôi thả ra, sau đó nó sẽ đền ơn bằng cách thực hiện cho tôi ba điều ước.
TRẦN HOÀNG PHỐKỷ niệm 45 năm thành lập Đại học Huế (1957-2002)1. Mặt trời, mặt trăng vẫn rạng rỡ soi, có lẽ cả ngàn năm trên cái giải đất Phú Xuân-Huế cỏ hoa thơ mộng, diễm kiều và tịch lặng này.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN Tôi đỗ vào Đại học Sư phạm Huế năm 1962. Lúc ấy tôi đã có Chứng chỉ Dự bị (Propédeutique) bên trường Đại học Văn khoa.
THOMAS MANNMANN, PAUL THOMAS, nhà văn Đức (1875- 1955). Sinh tại Lüberk trong một gia đình thương gia lớn. Cha là Johnann Heinrich Mann - một thượng nghị sĩ, đồng thời là thương gia. Mẹ là Julia con gái của một chủ trang trại người Đức và một phụ nữ gốc Bồ Đào Nha.
TRUNG SƠNĐó là truyện ngắn “Ngựa người và người ngựa” của cây đại thụ trong làng văn Việt : nhà văn Nguyễn Công Hoan. Đây là một trong những truyện ngắn xuất sắc, thể hiện rõ phong cách “truyện ngắn Nguyễn Công Hoan” nên đã hai lần được lấy làm tên các tập truyện ngắn của ông. (Lần đầu, do nhà Mai Lĩnh xuất bản năm 1934 và lần thứ hai do Nhà xuất bản Văn học in năm 1988).
XUÂN TÙNGNgày đầu xuân ở nước ta có nhiều phong tục đã được tồn tại lâu đời như tục xông đất, hái lộc, mừng tuổi: Vào những ngày đầu xuân, các tầng lớp nho sĩ còn có tục khai bút, cho chữ... vừa là thú vui, vừa là cung cấp cho những người thích xin chữ, xin câu đối về treo. Việc làm này mang một ý nghĩa văn hóa thú vị.
PHẠM THỊ CÚCMột ngày đẹp trời chúng tôi “lên đường” bằng... ô tô, đi câu cá ở một cái hồ xa xôi tận miền đông bắc nước Mỹ.
VĨNH NGUYÊNTrước mặt tôi là thăm thẳm sâu hút chập chùng xanh đến rợn người mà thích thú làm sao! Hồ Truồi trong vắt dưới chân như ta có thể rơi tòm xuống đó nếu không may để sẩy bước hụt. Và, sau lưng tôi là chót đỉnh Bạch Mã gần kề như chỉ còn một tầm tay với. Nơi đây, mang cái tên lộng lẫy: Vọng Hải Đài!