Nobel Văn học 2011: Khi thơ ca là những bản hoan ca

15:53 31/10/2011
TRẦN HUYỀN SÂMGiản dị, nhưng lay động và ám gợi một cách siêu hình, nhà thơ sống ẩn dật Tomas Transtromer đã được Hội đồng Hàn lâm Thụy Điển vinh danh giải Nobel văn học 2011.> Những nét gạch xóa của lửa

Chân dung Tomas Transtromer

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Giới bình luận báo chí trên Le Figaro đã thốt lên: “Đấy là một sự ngạc nhiên đối với người Pháp chúng tôi!(1). Vì sao? Bởi họ chờ đợi một cái tên như Bob Dylan - nhà thơ, họa sĩ và huyền thoại âm nhạc, hay Adonis - nhà thơ kiêm nhà hoạt động chính trị Syrie…

Kỳ thực, Tomas Transtromer đã nổi tiếng từ lâu. Những năm của thập niên 80, thơ ông đã được dịch ra hơn sáu mươi thứ tiếng trên thế giới. Dù ông sống ẩn dật, lặng lẽ trên một hòn đảo, sau cơn bạo bệnh vào năm 1990, nhưng những vần thơ sâu sắc, giàu tính suy tưởng, cách luận giải mới mẻ về con người và cuộc sống đã vang khắp thế giới. Người ta đọc thơ ông trên
métro, trong giáo đường…

Transtromer được giới thiệu ở Pháp bằng tuyển tập OEuvres complètes (1954-1994) de Tomas Transtromer, chuyển dịch từ tiếng Thụy Điển bởi Jarques Outin, do Nxb Le Castor Astral ấn hành vào năm 1996, với lời giới thiệu trang trọng của Marc Blanchet: “Đấy là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ XX”(2). Còn ở Việt Nam, chúng ta được biết đến T.Transtromer từ năm 2000, qua bản dịch tiếng Pháp của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh, do Nxb Văn học ấn hành. Và Tạp chí Sông Hương cũng đã từng hân hạnh giới thiệu một chùm thơ của ông vào năm 2006. Như vậy, T.Transtromer đâu phải là nhà thơ xa lạ với chúng ta!?

Viện Hàn lâm Thụy Điển vinh danh Nobel cho Tomas Transtromer bởi tác phẩm của ông đã đặt ra những vấn đề lớn lao của thời đại: “về cái chết và lịch sử, về ký ức và thiên nhiên”. Transtromer được mệnh danh là bậc thầy của phép ẩn dụ/ Maitre de la métaphore. Thơ ông là kết hợp siêu hình, ám ảnh “Những bí ẩn của thơ ca cư trú trong sự kết hợp bất ngờ của một tầm nhìn rộng lớn và một giác quan chính xác” (Terre à ciel des poètes/ Poésie d'aujourdhui)(3).

Hình như Tomas Transtromer đã quyến rũ bạn đọc bởi ba điều đặc biệt: sự khắc khoải của nỗi đau tội lỗi; sự dồn nén của ngôn ngữ câm lặng; sự du dương của những bản thánh ca tràn đầy nhục cảm trần thế?

Khi thơ ca là lời sám hối cho những tâm hồn tội lỗi


Tomas Transtromer là một nhà thơ, kiêm nhà tâm lý học. Ông từng làm việc trong các tổ chức từ thiện để giúp đỡ cho những người bệnh tật và lầm lỗi. Đối diện với nỗi đau của mặc cảm tội lỗi, thơ ông là niềm thấu hiểu sâu sắc về cuộc đời và con người. Những hoạt động trong trại tập trung Roxtuna (cải tạo trẻ em phạm tội, giới nghiện ma túy) là dịp để Transtromer thể nghiệm thơ ca. Thơ ông đã cất lên từ những nỗi đau sám hối của loài người

Như khi ai đó đã chìm quá sâu trong giấc mơ
sẽ không bao giờ hắn có thể nhớ mình đã ở đó
lúc trở lại căn phòng.
Như khi ai đó đã ở quá sâu trong bệnh tật
những ngày tháng cũ trở thành những điểm nhấp nháy, một chùm,
lạnh lẽo và yếu ớt ở chân trời

(Đường ray)

Khi thơ ca vang lên từ chốn câm lặng…


Với T. Transtromer thơ ca là sự dồn nén của thế giới ngôn ngữ câm lặng (4). Trong chốn thâm u, huyền bí, thơ ca gợi ra niềm ẩn mật của tâm linh. Đối thoại với thế giới nội tâm, thơ ông đã đúc kết thành những triết lý sâu thẳm về thiên nhiên, con người giữa cõi nhân thế…

Ban đêm, bầu trời gào thét.
Không cho ai biết, chúng ta rút sữa từ hoàn vũ, để sống còn

(Những nét gạch xóa của lửa)

Phải chăng, cuộc sống ẩn dật khiến cho thơ ca của Tomas Transtromer có một sức quyến rũ riêng? Cú ngã đột quỵ vào năm 1990, làm cho Transtromer không còn diễn đạt ngôn ngữ như một người bình thường. Bàn tay phải cũng không thể cầm bút để sáng tạo như xưa. Trong nỗi đau câm lặng của bệnh tật, trong sự bất lực của niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, thơ Transtromer đã vang lên bằng một thứ ngôn ngữ dồn nén khắc khoải. Đó chính là sự bí ẩn, kỳ thú, mà chỉ những nghệ sĩ tài hoa, thượng đế mới ban tặng cho đặc ân này. Nỗi đau, sự khốn cùng, thường là nơi chốn để thơ ca, nghệ thuật thăng hoa. Ít ai viết thành công trong niềm hân hoan hạnh phúc. Đó cũng là một nghịch lý thú vị của nghệ thuật với cuộc đời này: Dostoievski viết trong cơn động kinh man rợ, Balzac viết trong chốn nợ nần vây quanh, Nietzsche viết trong sự khốn cùng của nỗi đau bị đàn bà chối từ…

Hơn một phần tư cuộc đời, Transtromer phải đối diện với cuộc sống bệnh tật. Lánh xa chốn nhân gian ồn ào, Transtromer đã biến nỗi đau riêng tư thành sức mạnh của ngôn ngữ thơ ca. Ám gợi, siêu hình và mang tầm triết học, thông qua những biểu tượng, Transtromer đã biểu đạt sự phong phú, kỳ bí của thiên nhiên và tâm hồn con người. Đó có thể là một thế giới bên kia, ngăn cách niềm giao cảm giữa nhà thơ với cuộc đời:

“Tôi đã viết cho các bạn thật ít ỏi. Nhưng những gì tôi không thể viết
đã phồng lên và phồng lên như một khinh khí cầu kiểu xưa
và cuối cùng trôi đi qua bầu trời đêm”

(Gửi những người bạn ở bên kia một biên giới)

Đôi lúc, trong những khoảnh khắc xao động, Transtromer đã hình dung về thế giới bằng một thứ ngôn ngữ mang màu sắc hiện sinh:

…Những kỷ niệm mơ hồ chìm xuống đáy đại dương
để sững lại dưới ấy - những pho tượng dị kỳ. - Xanh rêu
là cây nạng của mi. Kẻ
đi biển trở lại hóa đá.

(Trầm tư xao động)

Khi thơ ca cất lên giai điệu của âm nhạc…


Tomas Transtromer từng là một cây piano tài hoa. Ông am hiểu sâu sắc lĩnh vực âm nhạc, vì thế, thơ Transtromer tràn đầy nhạc tính. Có những câu thơ dìu dặt, réo rắt. Có những câu thơ kéo dài, ngân nga như những bản sérénade. Có những câu thơ đứt gãy, vỡ vụn, tan ra trong không trung…

…Rơi rơi
mọi hành động của chúng ta
trong như pha lê
không vào một đáy sâu nào hết
ngoại trừ ở bên trong chính chúng ta.

(Đá)

Tính triết lý, biểu tượng và sự du dương âm nhạc, là những đặc điểm làm nên phong cách thơ của Transtromer như các nhà phê bình Tây âu nhận xét.

Về con người Tomas Transtromer?


Chào đời vào năm 1931 tại Stockholm, nhưng lại sống gần như ẩn dật tại một hòn đảo, sau cơn đột quỵ oan nghiệt vào năm 1990. Trường trung học Latin Sodra và tấm lòng nhân ái của người mẹ là nơi nuôi dưỡng tâm hồn thi ca của Tomas Transtromer. Những vần thơ nhen nhóm, khi còn tuổi ấu thơ. Tập thơ gây chú ý với độc giả, khi Transtromer đang là sinh viên tâm lý học, 17 poèmes (17 Diker), do Nxb Bonners ấn hành 1954. Đó cũng là khởi phát cho sự nghiệp và niềm đam mê thi ca của Tomas. Năm 1956, ông nhận bằng cử nhân tâm lý học và được tuyển dụng vào Viện Kỹ thuật tâm lý của trường Đại học Stockholm. Tuy nhiên, Transtromer luôn bận tâm đến vấn đề nghệ thuật, thi ca và lịch sử. Chính điều này đã tạo ra một phong cách đa diện, phong phú trong nghiệp tác của Transtromer.

Mặc dù đau đớn trong bệnh tật, Transtromer vẫn miệt mài đam mê sáng tạo. Năm 2004, ông cho ra đời tác phẩm Bí mật của đời tôi. Ngoài ra, ông còn viết hồi ký. Tập Những kỷ niệm đang nhìn tôi, đã được bạn đọc quan tâm bởi hình tượng tự thuật là tác giả.

Ngoài giải thưởng Nobel cao quí vừa được vinh danh 10 - 2011, Tomas Transtromer đã từng nhận được nhiều giải thưởng đặc biệt khác, như giải: Bellmanpriset (1966), Prarque của Đức (1981), giải thưởng văn học quốc tế Neustadt của Mỹ (1990), giải Augustpriset năm 1996... Với những giá trị đã đạt được, Tomas Transtromer được đánh giá là một trong những thơ đương đại lớn nhất của thế kỷ XX. Transtromer đã góp phần quan trọng để làm nên diện mạo thơ ca của dân tộc Thụy Điển và thế giới.

Trên hết, thơ Tomas Transtromer là bản hoan ca về cõi nhân thế. Bằng tính quyền uy của ngôn ngữ, Transtromer đã mở ra những giới hạn về con người và cuộc đời. Lay động, run rẩy và khắc nghiệt, thơ ông đã đánh thức từng giác quan của chúng ta trong thế giới vô cảm của xã hội hậu hiện đại. Viện Hàn lâm đã trao giải cho Tomas Transtromer, vì lời xưng tụng con người bằng một thứ ngôn ngữ tuyệt đẹp đó.

T.H.S.
(273/11-11)


----------------
(1) Transtromer: “Une surprise pour nous les Francais”, Le Figaro, htt://www.lefigaro.fr/livres Các tư liệu trong bài được tổng hợp từ nguồn tiếng Pháp. Các bài thơ là bản dịch của Nguyễn Xuân Sanh. Chúng tôi có xem thêm bản tiếng Pháp của Jacque Outin trong tuyển tập OEuvres complètes (1954- 1994) de Tomas Transtromer, Éditions du Castor Astra, 1996.
(2) Le mensuel de la littérature contemporaine, htt://www.lmda.net/din/tit
(3) Terre à ciel des poètes -Tomas Transtrosmer, htt://terreaciel.free.fr/poetes/poetesttanstromer
(4) Le poète du silence, nguồn hh:/www.critiqueslibres.com






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.