1. Hòa bình, thống nhất và kỷ nguyên sáng tạo
Lịch sử văn học thành văn của nước ta không mấy suôn sẻ. Tính từ sau Công nguyên, chúng ta đã mất đi một nghìn năm Bắc thuộc, không có văn học viết bằng văn tự. Một nghìn năm tiếp theo thì có đến chín trăm năm phải dùng văn tự nước ngoài - chữ Hán, hoặc sau đó các trí thức yêu nước có sáng tạo thêm chữ Nôm, một hình thức dùng chữ Hán để ký âm tiếng Việt, gọi là văn chương quốc âm - và chỉ vỏn vẹn một trăm năm tiếp theo chúng ta mới có văn chương Quốc ngữ. Bởi vậy, ý nghĩa lịch sử những năm vắt ngang giữa hai thế kỷ XX và XXI, là vô cùng quan trọng đối với tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có tiến trình văn học. Càng có ý nghĩa lớn lao hơn, vì đó còn là quãng thời gian đất nước vừa trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, vừa hòa bình thống nhất chưa được bao lâu, lại phải đối đầu với hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Những gì chúng ta có được hôm nay, sau nửa thế kỷ nhìn lại, là sự nỗ lực của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã đem lại sự an vui và phát triển cho đất nước, trong đó có đời sống xã hội và văn chương xứ Huế.
1.1. Đất nước thống nhất và công cuộc đổi mới
Hòa bình, thống nhất là khát vọng của cả dân tộc và chúng ta phải gánh chịu nhiều hy sinh mất mát mới giành được. Nhưng sau năm 1975 với bao ngổn ngang của thời hậu chiến, cùng với niềm vui hân hoan, đoàn tụ của cả hai miền Nam Bắc là những khó khăn về kinh tế bao cấp thời chiến tranh còn tồn đọng, những thiếu thốn trăm bề. Xứ Huế nói chung và văn chương xứ Huế nói riêng, cũng không là ngoại lệ. Cũng vẫn phát huy tinh thần yêu nước vốn có của con người ở vùng đất trầm tích nhiều vỉa tầng văn hóa, tiếp tục đưa con em ra chiến trường, tích cực tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, thực hiện công cuộc đổi mới, mà trong đó không thể thiếu vai trò của người cầm bút, lực lượng quan trọng trong việc xây dựng diện mạo đời sống tinh thần của một vùng đất.
Từ bức tranh hiện thực của đất nước đang quẩn quanh trước thực trạng bao cấp, với những thiếu thốn và đòi hỏi bức bách cần phải đổi thay để phát triển, người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ là Tổng Bí thư Trường Chinh, đã có tầm nhìn chiến lược về quy luật vận động của lịch sử và nhận ra vấn đề cốt tử của vận mệnh đất nước, đề ra một quyết sách có ý nghĩa chiến lược Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại và chuyển giao cho người kế nhiệm chức vụ Tổng Bí thư là Nguyễn Văn Linh. Có thể nói, đó là một cuộc “cách mạng” làm thay đổi toàn bộ các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội, mà trước hết là thay đổi cái nhìn, tầm nhìn làm lay chuyển tâm tư nguyện vọng của toàn dân. Trong đề án thiết kế của mình, về văn học, nghệ thuật Tổng Bí thư Trường Chinh còn nêu rõ: “Ngoài việc thể hiện những con người tốt, việc tốt thì cũng phải nêu lên, phải vẽ ra những con người xấu, việc xấu để mọi người khinh ghét, tránh xa những cái xấu, làm như vậy không phải là để lên án chế độ mà để chống lại những con người, những sự việc làm trái với lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội (...), cần chú ý xây dựng trong tác phẩm của mình những hình tượng chân thực, truyền cảm, có sức thuyết phục cao về những người lao động chân chính đang lao động chân tay và trí óc quên mình, dũng cảm vượt qua mọi thiếu thốn, khó khăn, vượt qua sự cám dỗ ma quỷ để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã đề ra...”1. Đó là tiếng nói lương tâm của thời đại, là chân trời rộng mở, đánh thức cảm quan và tài năng sáng tạo cho văn nghệ sĩ cả nước, trong đó có xứ Huế vốn là nơi có truyền thống, là hằng số tự nhiên như thảm cỏ xanh ươm đầy nhựa sống sẵn dành cho văn chương nghệ thuật thăng hoa.
1.2. Đội ngũ sáng tạo - hòa chung một dòng
Có thể nói, chưa có thời điểm nào trong lịch sử văn chương xứ Huế, lại có một đội ngũ những người viết đông đảo như nửa thế kỷ qua, kể cả thời Huế còn là trung tâm của cả nước, với những thành tựu của văn chương chữ Hán, chữ Nôm và chứng kiến bước chuyển giao trong buổi giao thời của văn chương Quốc ngữ.
Nửa thế kỷ qua có đến mấy thế hệ cầm bút xuất hiện, gối đầu, đồng hành và tiếp tục bổ sung cho nhau. Thế hệ trước 1975, là những người viết đến từ nhiều nguồn, thậm chí có tính đa cực, nhưng khác với nhiều nơi ở các đô thị miền Nam, người viết văn ở Huế hội nhập, nhanh chóng hòa chung một dòng và cùng chung niềm mong ước: Xây dựng một nền văn học, văn hóa tinh thần giàu bản sắc dân tộc, đậm đà văn hóa Huế; cho dẫu ở thời điểm mười mấy năm đầu trong môi trường văn nghệ Bình Trị Thiên, hoặc sau này là văn nghệ Thừa Thiên Huế. Nguồn lực đông nhất là những người từ trên chiến khu và từ miền Bắc trở về, hoặc từ hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị nhập lại, như: Nguyễn Khoa Bội Lan, Thanh Hải, Xuân Hoàng, Lương An, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Nhuận Vỹ, Tống Hoàng Nguyên, Hải Bằng, Hoài Nguyên, Trần Phương Trà, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Quang Hà, Hà Khánh Linh, Trần Vàng Sao, Vĩnh Nguyên, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Công Tấn, Thái Ngọc San, Võ Quê, Mai Văn Tấn, Hoàng Vũ Thuật, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Vũ Mạnh Lập, Xuân Đức, Hồng Thế, Lê Đình Ty... hội nhập cùng với các tác giả sáng tác trong Nội thành, như: Phan Văn Dật, Bửu Ý, Trần Duy Phiên, Trần Hữu Lục, Trần Hồng Quang, Tần Hoài Dạ Vũ, Huỳnh Ngọc Sơn, Lê Văn Ngăn, Ngụy Ngữ, Trần Phá Nhạc, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Xuân Hoa, Trần Đại Vinh, Phan Thuận An, Lê Nhược Thủy, Nguyễn Đông Nhật, Lê Gành, Trần Đình Sơn Cước, Phạm Tấn Hầu, Văn Hữu Tứ, Trần Văn Hội, Kiều Trung Phương, Ngàn Thương, Nguyễn Thiền Nghi,... tạo nên một dòng chảy ào ạt, mênh mang theo bến bãi, bờ xa. Ngoài một số tác giả cũng sáng tác tại Nội thành, nhưng tự mình đã phân cực đối lập hoặc do hoàn cảnh cá nhân/gia đình đã bỏ đi nước ngoài, trong số phần lớn những tác giả ở lại, hầu hết đều là người từng tham gia phong trào đấu tranh đô thị, nên hầu như không có sự chững lại, mà nhanh chóng tiếp tục bắt nhịp với dòng chảy văn chương thời kỳ hòa bình, thống nhất của cả dân tộc.
Thế hệ người viết trưởng thành từ sau năm 1975 như: Nhất Lâm, Lê Gia Ninh, Nguyễn Văn Vũ, Phạm Phú Phong, Nguyễn Quang Lập, Mai Văn Hoan, Ngô Minh, Hải Kỳ, Nguyễn Thị Bích Hải, Trần Hoàng, Dương Thành Vũ, Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Hới Thọ, Hồ Thế Hà, Phạm Xuân Phụng, Lê Viết Xuân, Trần Tịnh Yên, Lê Ngã Lễ, Nguyễn Việt, Phạm Ngọc Túy, Trần Hạ Tháp, Tô Vĩnh Hà, Nguyễn Nguyên An, Nguyễn Đức Sĩ Tiến, Văn Công Toàn, Nguyễn Đức Sơn, Tôn Nữ Ngọc Hoa, Lê Thị Hoài Nam, Đỗ Văn Khoái, Lê Thị Hường, Dương Phước Thu, Nguyễn Loan, Hà Văn Lưỡng, Thúy Nga, Nguyên Quân, Việt Hùng, Ngô Cang, Nguyễn Tuất, Lê Viết Tường, Nguyễn Thị Thái,... Sự kiện chia tách và tái lập tỉnh Thừa Thiên Huế vào năm 1989, cũng gây ít nhiều xáo trộn về đội ngũ. Những người quê gốc ở hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị trở về quê để xây dựng quê hương. Một số người tình nguyện ở lại, nhận Huế là quê hương thứ hai, trong đó có cả nhiều người ở các tỉnh khác ven biển miền Trung. Ngược lại, thời gian này cũng có nhiều tác giả từ Huế, do hoàn cảnh công tác/đời sống, đã lan tỏa đến nhiều vùng đất khác nhau và tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho đời sống văn học cả nước như: Tố Hữu, Phùng Quán, Trần Phương Trà, Nguyễn Thị Ngọc Trai, Trần Thanh Đạm, Thái Vũ, Lê Trọng Sâm, Trần Duy Phiên, Trần Hữu Lục, Lê Văn Ngăn, Lê Gành, Tiêu Dao Bảo Cự, Lê Nhược Thủy, Trần Văn Hội, Trần Chi...
Một thế hệ đông đảo và sung sức, là sản phẩm của công cuộc đổi mới, đang dần trở thành chủ nhân của đời sống văn học thế kỷ XXI. Họ là những người được đào tạo tử tế, đến với văn học không phải do sự thúc bách của đời sống mà do ý thức từ trong sâu thẳm của tâm hồn, ý thức trong việc chọn đường và có thể hành nghiệp lâu dài đối với văn chương. Đó là các tác giả Lê Công Doanh, Trần Bá Đại Dương, Phạm Nguyên Tường, Nguyễn Thành, Nguyên Du, Thái Cẩm Thủy, Hà Ngọc Hòa, Nguyễn Khoa Diệu Hà, Tôn Nữ Diệu Hạnh, Nguyễn Duy Tờ, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Nguyễn Văn Quang, Đặng Thị Ngọc Phượng, Bạch Lê Quang, Nguyễn Phước Hải Trung, Phạm Thị Cúc, Nguyễn Thị Duyên Sanh, Từ Nguyễn, Hoàng Thu Thủy, Hoàng Thị Huế, Trần Huyền Sâm, Phi Tân, Nguyễn Lãm Thắng, Lê Vĩnh Thái, Lê Tấn Quỳnh, Nguyễn Văn Thuấn, Nguyễn Thống Nhất, Châu Thu Hà, Đông Hà, Lưu Ly, Trang Thùy, Nhụy Nguyên, Ngô Công Tấn, Lê Minh Phong, Nguyễn Văn Hùng, Phan Tuấn Anh, Đặng Văn Sử, Lê Vũ Trường Giang, Nguyễn Vũ Tuấn, Trần Băng Khuê, Phan Trọng Hoàng Linh, Meggie Phạm, Nguyễn Thùy Trang, Hồ Tiểu Ngọc, Triệu Nguyên Phong, Trường Thắng, Lãng Hiển Xuân,...
Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, có đến hàng trăm tác giả đang sinh sống bằng nhiều ngành nghề khác nhau, và đang rong ruổi trên con đường sáng tạo văn học. Họ vừa lao động kiếm sống vừa miệt mài sáng tạo, ngày càng bồi đắp cho nền văn chương xứ sở, để không phụ lòng thế hệ những người đi trước và không thua kém bất kỳ vùng đất nào trên cả nước, kể cả hai trung tâm lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Thành tựu về nhiều thể loại
Có thể nhận ra, cảm hứng chủ đạo của văn học xứ Huế nửa thế kỷ qua là bài ca hân hoan chào đón sự kiện thống nhất non sông, những hồi ức đau thương về chiến tranh, những ngợi ca công cuộc xây dựng đời sống trong tiến trình đổi mới. Điều đó không chỉ là nội dung mỹ cảm có ý nghĩa tập trung, mà còn hướng đến những khám phá mới về hình thức, tuân thủ những quy luật sáng tạo mới, đem lại những thành tựu có ý nghĩa căn cốt trên các lĩnh vực chủ yếu của lãnh địa văn chương như thơ, văn xuôi và nghiên cứu, lý luận, phê bình.
2.1. Thơ
Chắc là khi phát hiện ra đẳng thức Huế, đẹp và thơ (1939) từ những năm khởi đầu của văn chương Quốc ngữ, Nam Trân không căn cứ trên số lượng đội ngũ những người làm thơ ở Huế thuở ấy, mà căn cứ trên những rung động từ trong sâu thẳm của tâm hồn trước cảnh vật và con người, núi sông và cây cỏ... những tác động không ngừng của vùng sinh quyển đậm đặc chất liệu mỹ cảm, mà tự nó như nó vốn có, tự nhiên đã là nghệ thuật. Nhưng nếu tính về số lượng, vào thời điểm đó, Huế cũng áp đảo. Chỉ tính riêng trong số 46 tác giả được Hoài Thanh “bầu” vào Thi nhân Việt Nam (1942) đã có 18 tác giả trưởng thành từ Huế, lúc ấy đang sống và sáng tác tại Huế (trong đó có 7 người sinh ra và lớn lên ở Huế). Vậy là, Nam Trân đã đúng khi khẳng định nơi đây là vùng sinh quyển của mỹ cảm, của cái đẹp, cái dành cho nghệ thuật thơ.
Mỗi nhà thơ ở xứ thơ đều là chủ nhân của một gia sản giàu có, khó mà thống kê cho thật đầy đủ. Trong sự am hiểu có giới hạn của mình, mỗi tác giả chúng tôi chỉ nêu vài ba tác phẩm tiêu biểu được sáng tác trong năm mươi năm qua, như sau: Nguyễn Khoa Điềm với Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007); Vĩnh Nguyên với Mây đá nhớ nhau (1989), Chòi ngắm sóng (2004); Võ Quê với Mười thương em bé (1993), Một thuở xuống đường (2001); Lâm Thị Mỹ Dạ với Bài thơ không năm tháng (1983), Đề tặng một giấc mơ (1998), Hồn đầy hoa cúc dại (2007); Ngô Minh với Chân dung tự họa (1989), Chân sóng (1995), Thơ tặng (2007); Nguyễn Thiền Nghi với Thuở biết yêu người (1994), Giấc mơ chữ (2010); Ngàn Thương với Nến chiều (2002), Giấc khuya (2013); Lê Ngã Lễ với Chiêm bao (1998), Lục bát bồng bềnh (2003); Triệu Nguyên Phong với Say nắng (2004), Rơm rạ chiều quê (2011); Trần Tịnh Yên với Nẻo quyên ca (2000), Gai sen (2014); Nguyễn Khắc Thạch với Dòng sông một bờ (1989), Mưa hai mặt (2002); Mai Văn Hoan với Ảo ảnh (1988), Lục bát thơ (2006); Đức Sơn với Dấu lạ (2005); Văn Công Toàn với Khúc ru tình (2014); Huỳnh Dung với Dấu yêu tình đầu (2021), Chợt tỉnh mơ hoa (2023); Lê Viết Xuân với Thơ viết cho em (1988), Gió kể (2014); Từ Nguyễn với Như một nỗi đời riêng (2009), Nhặt lá mùa xưa (2011); Nguyễn Duy Tờ với Huế mùa đông 1999 (trường ca, 2019), Đất thiêng (trường ca, 2023); Nguyễn Văn Quang với Vay mượn trần gian (2005), Trở dạ (2014); Bạch Diệp với Vũ điệu lam (2011), Mùa Bạch Diệp (2020); Phạm Nguyên Tường với Hoa cúc mùa thu (1994), Quang gánh và những bài thơ khác (2006); Nguyễn Lãm Thắng với Điệp ngữ tình (2007), Đầu non cuối bãi (2014); Lê Vĩnh Thái với Ký ức xanh (2004), Ngày không nhớ (2010); Lê Tấn Quỳnh với Linh ngọc (1998), Những giỏ hoa của thời gian (2014); Đông Hà với Người đàn bà che mặt (2010), Đi ngược đám đông (2014); Châu Thu Hà với Khúc đêm (2002); Nhận mặt thời gian (2023); Lưu Ly với Gọi em ở cuối thiên đường (2007); Ngô Công Tấn với Vòng tay mưa (2013)...
Cũng từ góc độ số lượng, thời kỳ này những nhà thơ ở Huế không những đông, số lượng tác phẩm được ấn hành khá nhiều, mà còn có cả những cây bút văn xuôi có tham gia làm thơ và loại thể nào cũng hay, không thua kém gì nhau. Các cây bút văn xuôi như Hồng Nhu có các tập thơ Ngẫu hứng về chiều (1988), Nước mắt đàn ông (1992), Chiếc tàu cau (1995), Rêu đá (1998); Hoàng Phủ Ngọc Tường có Dấu chân qua thành phố (1976), Người hái phù dung (1992); Nguyễn Quang Hà có Nghe tiếng gà trên điểm chốt (1976), Gửi em cô gái đỏng đảnh (2019); Hà Khánh Linh có Trăng cứu rỗi (1995), Những bọt bóng màu (1998); Nhất Lâm có Vú đá (2009); Nguyễn Nguyên An có Cơn mê của gió (2011); Phạm Xuân Phụng có Nỗi buồn của Chúa (2010); Nguyên Quân có Nhảy múa cùng smartphone (2021); Nguyễn Quang Lập có Kỷ niệm thời trai trẻ (1988); Hồ Đăng Thanh Ngọc có Đi qua cánh rừng (2009), Chiếc ô đi lẻ (2013); Nhụy Nguyên có Lập thiền (2011), Khi người ta cúi mặt (2016)... Chưa kể các nhà nghiên cứu lý luận, phê bình cũng có những tập thơ hay, đạt các giải thưởng cao như: Nguyễn Xuân Hoa, Hồ Thế Hà, Nguyễn Phước Hải Trung, Phan Tuấn Anh.
Nhìn chung, những tác giả tiêu biểu cho giọng điệu thơ Huế, được bạn đọc quan tâm và đạt các giải thưởng cao ở Trung ương và địa phương trong thời gian qua là Nguyễn Khoa Điềm, Hồng Nhu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Khắc Thạch, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh và nhiều người khác nữa. Trong thơ của những tác giả này không chỉ thể hiện tâm thức của con người xứ Huế với nhiều vỉa tầng văn hóa, những nội dung mỹ cảm của sông núi, cỏ cây, hoa lá, mà còn hướng đến những vấn đề mà cả nước quan tâm, trong xu thế đổi mới và hội nhập với thế giới, trong vòng khí quyển của hòa bình, độc lập, thống nhất, với tư thế: “Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật/ Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời” (Nguyễn Khoa Điềm). Thơ Huế bây giờ không chỉ thể hiện sự vận động của lý tưởng thẩm mỹ, mà còn đổi mới một cách triệt để về thi pháp biểu hiện.
2.2. Văn xuôi
Đối với văn chương tưởng tượng, nói đến văn xuôi là chủ yếu gồm ba thể văn chủ lực của văn học hiện đại là tiểu thuyết, truyện ngắn và các tiểu loại ký. Về đặc trưng thể loại, các thể văn này có mối quan hệ gần gũi, có sự giao thoa, tích hợp và xuyên thấm lẫn nhau, cũng có người thành công với nhiều thể văn, nhưng cũng tùy thuộc vào “cái tạng” của mỗi người, trong từng thời kỳ sáng tạo có thể có những thành công khác nhau. Ví như, đối với nhà viết ký tài hoa Hoàng Phủ Ngọc Tường, cho dù có khi ông viết truyện dài như Bản di chúc của cỏ lau (1986) nhưng vẫn phảng phất “mùi” bút ký. Với cây bút truyện ngắn xuất sắc Hồng Nhu, thì các truyện dài Vẫn chuyện phiêu lưu (1985), Đồi trở gió (2008) cũng chỉ là những truyện ngắn viết dài. Ngược lại, cây bút nữ mang đậm tâm thức xứ Huế như Trần Thùy Mai, đã định hình khi gặt hái nhiều thành công với thể loại truyện ngắn từng được bạn đọc chú ý lâu nay, mấy năm gần đây lại nổi bật với tiểu thuyết dài tập, khi chị cho công bố các tiểu thuyết lịch sử Từ Dụ Thái hậu (2 tập, 2018), Công chúa Đồng Xuân (2 tập, 2023).
Các tác giả tiểu thuyết có nhiều thành công tiêu biểu như Nguyễn Khắc Phê với Chỗ đứng người kỹ sư (1980), Biết đâu địa ngục thiên đường (2010); Tô Nhuận Vỹ với Dòng sông phẳng lặng (3 tập, 1973 - 1984), Vùng sâu (2012); Nguyễn Quang Hà với Thời tôi mặc áo lính (1990), Vùng lõm (2008); Hà Khánh Linh với Chiến tranh và sau chiến tranh (1989), Lửa kinh đô (2010); Dương Thành Vũ với Nguyệt thực (1999); Phạm Ngọc Túy với Bình minh ơi trở lại (2008); Nguyễn Nguyên An với Trường Đại học của tôi (2007), Bầu trời cổ tích (2010); Nguyễn Việt với Đằng sau hồ sơ chết (1987), Người lính đào hoa (2000); Tô Vĩnh Hà với Tro và lửa lạnh (1998), Em biết anh là ai (2001); Meggie Phạm với Hoàng tử và em (2010), Tôi và em (2013)... Ở thể loại này, những người có đóng góp sung sức nhất là Hà Khánh Linh với 21 tác phẩm, Nguyễn Quang Hà với 17 tác phẩm, Nguyễn Khắc Phê với 10 tác phẩm và cây bút trẻ Meggie Phạm với 5 tác phẩm. Các tác giả truyện ngắn tiêu biểu như Hồng Nhu với Thuyền đi trong mưa ngâu (1995), Lễ hội ăn mày (2001); Phạm Xuân Phụng với Câu chuyện bên hồ (1997), Nghệ thuật lửa (2000); Nguyễn Thị Duyên Sanh với Nơi ấy sẽ là nhà (2019), Vẫn còn nắng trên đồi (2022); Việt Hùng với Cô gái hoàng hôn (1997), Sứ giả (2010); Bạch Lê Quang với Thõng tay vào chợ (2010); Lê Minh Phong với Chưa đủ để gọi là khoảnh khắc (2011), Trong tiếng reo của lửa (2014); Lê Vũ Trường Giang với Ngủ giữa trùng sơn (2013), Bạc màu áo ngự (2023)... Ở các tiểu loại ký, nổi bật là Hoàng Phủ Ngọc Tường với Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1986); Nguyễn Văn Dũng với Linh Sơn mây trắng (2006), Lời tự tình của một dòng sông (2013); Hồ Đăng Thanh Ngọc với Chuyện Huế (2008), Đôi triêng gióng của mạ (2011); Nguyễn Xuân Hoàng với Ký ức quỳnh hương (2007), Cõi tạm phù hoa (2011); Nguyên Du với Nhất Huế nhì Sịa (2020), Sông Hương đôi bờ thương nhớ (2021); Phi Tân với Về Huế ăn cơm (2021), Bên sông Ô Lâu (2022)...
Đặc biệt, xứ Huế có nhiều tác giả đa tài, thành công với nhiều thể loại, như Hồng Nhu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Quang Hà, Vĩnh Nguyên, Nhất Lâm, Hà Khánh Linh, Ngô Minh, Nguyên Quân, Phạm Nguyên Tường...
2.3. Nghiên cứu, lý luận, phê bình
Cứ nhìn vào bảng lược đồ văn học cả nước, trong năm mươi năm qua, sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, thì Huế vẫn là một trong ba trung tâm văn chương của cả nước. Bởi, Huế là trung tâm đào tạo đại học có truyền thống lâu đời, có các tạp chí nghiên cứu chuyên sâu như: Huế xưa và nay, Nghiên cứu Huế, Khoa học và phát triển, và nhất là Tạp chí Sông Hương - cơ quan ngôn luận của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, ra đời trước thềm của công cuộc đổi mới (1983).
Có đến mấy thế hệ những người viết nghiên cứu, lý luận, phê bình hành nghiệp trên đất Huế mấy mươi năm qua. Đó là lực lượng tại chỗ từng có những đóng góp nghiên cứu, dịch thuật trong Nội thành trước năm 1975, trong đó có cả những người hoạt động trong phong trào yêu nước đô thị như: Bửu Ý,... lại được bổ sung bởi đội ngũ các tác giả từ miền Bắc và trên chiến khu trở về như: Lương An, Nguyễn Văn Hạnh, Phạm Văn Sĩ, Phan Ngọc Thu, Trường Ký, Lê Xuân Việt, Tạ Đình Nam, Khải Phong... Ở thời kỳ mở đầu sau ngày đất nước thống nhất, cuộc sống còn bao cấp, giấy in cũng khan hiếm, hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình chưa có gì nổi bật, chỉ có mấy công trình tác phẩm, những bài phê bình, điểm sách in trên các báo của Lê Xuân Việt là đáng chú ý.
Lực lượng nghiên cứu, lý luận, phê bình nhanh chóng phát triển trong đội ngũ giảng viên ở hai Trường Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp (nay là Đại học Khoa học), nhằm nâng cao trình độ của những thầy cô giáo thành các nhà khoa học, thông qua hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình. Về tuổi tác có thể chênh nhau dăm ba tuổi, nhưng họ xuất hiện gần như cùng lúc, tự đào tạo/ hoàn thiện trở thành những cây bút chủ lực trong hoạt động học thuật với nhiều hình thức tọa đàm, hội nghị, hội thảo, in ấn và công bố công trình, tác phẩm đầy sôi động gần nửa thế kỷ qua: Phan Hứa Thụy, Triều Nguyên, Nguyễn Thị Bích Hải, Trần Hoàng, Trần Thái Học, Lê Thị Bích Lộc, Phạm Phú Phong, Hồ Thế Hà, Nguyễn Thành, Lê Thị Hường, Dương Phước Thu, Phan Thị Đào, Hà Văn Lưỡng, Đặng Thị Ngọc Phượng... Những người viết khỏe như Hồ Thế Hà, Phạm Phú Phong, Dương Phước Thu, Trần Hoàng, đã là chủ nhân của vài chục đầu sách, tuân thủ theo một hệ thống quan niệm và phong cách riêng, khẳng định tư cách chuyên gia về một số lĩnh vực nhất định. Hồ Thế Hà vận dụng phân tâm học vào nghiên cứu, phê bình thơ Việt Nam hiện đại; Phạm Phú Phong vận dụng thi pháp học hiện đại vào giải mã văn xuôi và tiến trình văn học; Dương Phước Thu vận dụng văn bản học vào nghiên cứu báo chí, văn hóa Huế; Trần Hoàng thành công với công việc sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian miền Trung... Bên cạnh đó, còn phải kể đến các nhà sáng tác có tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu, phê bình và đã đem lại những thành công đáng ghi nhận như: Nguyễn Khắc Phê, Mai Văn Hoan, Meggie Phạm, Lưu Ly.
Đặc biệt, từ sau đổi mới (1986) đến những năm đầu của thế kỷ XXI, đã xuất hiện các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học trẻ, một thế hệ mới với phương pháp và góc nhìn, giọng điệu và cảm thức đều mới mẻ - thế hệ những người được đào tạo bài bản, có khả năng làm thay đổi diện mạo tương lai văn học của xứ sở và đất nước: Trần Huyền Sâm, Hoàng Thị Huế, Nguyễn Văn Thuấn, Thái Phan Vàng Anh, Nguyễn Văn Hùng, Phan Tuấn Anh, Thanh Tâm Nguyễn, Phan Trọng Hoàng Linh... Cùng với các nhà sáng tác trẻ, lớp người này mang lại những tín hiệu mới và kỳ vọng cho người đọc trong tương lai.
3. Những tín hiệu mới với nhiều kỳ vọng
Nghệ thuật và đổi mới có cùng một bản thể không chia cắt. Từ trong bản thể của nghệ thuật luôn thể hiện quy luật không lặp lại. Đành là vậy, nhưng nhìn chung không chỉ có nghệ thuật, mà sự sáng tạo nào cũng là sáng tạo cái mới. Nhưng ở đây, những tín hiệu mới đáng để người ta kỳ vọng, là những nhân tố mới mang bản lĩnh văn hóa triệt để một cách toàn diện, đáp ứng sự mong đợi và kỳ vọng của mọi người trong tiến trình vận động của đời sống xã hội và lịch sử nghệ thuật. Khác với các lĩnh vực khác, lịch sử là cái đã qua/thuộc về quá khứ, còn đối với nghệ thuật, lịch sử là cái còn lại/thuộc về hiện tại và tương lai.
3.1. Tín hiệu mới từ phía người sáng tạo
Không khí đổi mới đã mở ra cả một chân trời cao rộng cho sáng tạo nghệ thuật. Đổi mới cũng bắt đầu từ những con người cũ. Thật khó mà vượt qua những thói quen cũ, trong cách nghĩ, cách làm với cái nhìn và cảm quan đã từng ăn sâu trong tâm thức, nên không thiếu những lực cản, những lúng túng, bùng nhùng đôi khi khó gỡ. Nhưng đối với thế hệ trẻ, đổi mới vẫn nguyên vẹn giá trị và không thể đảo ngược. Họ được tiếp thu một cách cẩn trọng và có chọn lọc các trào lưu mới một cách chính đáng, từ việc nhận thức đúng bản chất của các trào lưu hiện đại, tiếp thu chủ nghĩa hậu hiện đại, tân hình thức, liên văn bản, liên văn hóa, nữ quyền luận, phê bình sinh thái... Cái mới đến với người trẻ là trinh nguyên, tươi mới và nguyên vẹn, được tiếp thu bởi những cảm quan không vướng phải những bụi bặm của cuộc đời, lại phù hợp với giọng điệu mới mẻ của người mới bước chân vào con đường hành nghiệp. Sinh thời, cố họa sĩ Bửu Chỉ có câu nói lặp đi lặp lại cửa miệng như một tuyên ngôn nghệ thuật rằng: “Bằng chính tôi, tôi đến với cuộc đời!” Câu này, xem ra rất phù hợp với những người sáng tạo trẻ hôm nay.
Chỉ riêng với lĩnh vực văn chương nghệ thuật, một lĩnh vực mà tự thân nó đã luôn phải mới, thì dường như về mặt chủ thể, khi đề ra đổi mới là nhằm hướng đến những con người cũ, đòi hỏi họ phải nghĩ khác, xoay nhìn theo hướng khác, đi theo con đường khác, nói bằng một giọng điệu khác... Còn đối với thế hệ trẻ, những người trưởng thành trong vòng sinh quyển của công cuộc đổi mới, từ hơi thở đến giọng điệu tâm hồn đều thấm đẫm cái mới, là sản phẩm của thời đại, họ đích thị là nhân tố mới của thời đại hôm nay.
Điều đáng mừng là những tín hiệu mới, đến từ cả những người sáng tác lẫn nghiên cứu, lý luận, phê bình. Ở phía những người sáng tác, nổi lên những gương mặt trẻ như: Nhụy Nguyên, Lê Minh Phong, Lê Vũ Trường Giang, Trần Băng Khuê, Nguyễn Vũ Tuấn, trong đó có cả những người tuổi đời không còn trẻ, nhưng chỉ mới chạm tay vào cánh cửa văn chương là trở thành nhà văn như: Nguyễn Thị Duyên Sanh, Nguyên Du, Nguyễn Khoa Diệu Hà, Phi Tân. Ở phía những người nghiên cứu, phê bình đội ngũ đông hơn, nhờ có môi trường học thuật của xứ Huế, như câu nói đã quá cũ, rằng: “Lý luận có khi đi trước một bước”, nhưng lại đúng trong trường hợp này. Đó là các tác giả như: Trần Huyền Sâm, Nguyễn Văn Thuấn, Thái Phan Vàng Anh, Nguyễn Văn Hùng, Thanh Tâm Nguyễn... Cá biệt, có những người nổi bật cả sáng tác lẫn nghiên cứu, phê bình như Phan Tuấn Anh, tác giả của các tập thơ Người ngủ muộn, Đoản khúc và các công trình Gabriel Garcia Márquez và nỗi cô đơn huyền thoại, Văn học Việt Nam đổi mới - từ những điểm nhìn tham chiếu và Những khu vực văn học ngoại biên; hoặc trường hợp Meggie Phạm, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn 5 tập Hoàng tử và em, Giám đốc và em, Chàng và em, Người xa lạ và em, Tôi và em, đã được tái bản nhiều lần và công trình nghiên cứu về văn học đô thị miền Nam Chút nắng phương Nam (in chung). Cần phải nói thêm, cũng có một vài cây bút, mới xuất hiện chưa được bao lâu đã báo hiệu về bản lĩnh và tài năng, như những cơn mưa đầu mùa có tia chớp, tiếc rằng đã sớm vội đi xa, như trường hợp Lê Viết Tường, hoặc Nguyễn Xuân Hoàng.
Mỗi người chỉ sống và làm việc trong một thời đại nhất định. Nhà văn là người phát ngôn cho thời đại của mình. Không ai có khả năng nói thay cho tất cả mọi thời. Vì vậy, điều quan trọng không chỉ là ở con người/nhân vật, ở cách nhìn và cảm quan nằm sâu trong tâm thức sáng tạo, mà còn ở giọng điệu tâm hồn, được biểu hiện thành sức mạnh của ngôn từ có thể làm lung lay tâm tưởng của nhiều thế hệ người đọc, soi chiếu nguồn sáng văn hóa nhân văn lên bức tường vách của thời gian, đang cần có sự đổi thay một cách bức thiết và triệt để, và dường như, cũng đang thao thiết gọi mời tiếng nói của tri âm. Những tín hiệu mới được phát ra, có sức vẫy gọi mạnh mẽ đối với mọi người, cũng là sức sống lâu bền trong tâm tưởng của người đọc văn chương. Nhìn từ phía khác, những tín hiệu mới không chỉ phát ra từ chân trời rộng rinh của sáng tạo, mà còn tạo ra từ môi sinh cuồn cuộn chảy một cách có ý thức của người thưởng thức nghệ thuật, là sự tự giác đòi hỏi riết róng về những kỳ vọng mới của chính họ, trước một thiết chế xã hội mới, trong thời đại mới - một thế giới phẳng có ý nghĩa toàn cầu.
3.2. Kỳ vọng của người đọc
Nửa thế kỷ văn học hòa bình, thống nhất cũng là thời gian vắt ngang cân đối giữa hai thế kỷ XX và XXI. Đó cũng là thời gian mà cả thế giới đã trải qua những biến động dữ dội chưa từng có, có sự chia phe, phân luồng, phân cực một cách phức tạp, với bao cuộc đối thoại, đối đầu, thậm chí có cả những cuộc chiến tranh đẫm máu giữa các láng giềng. Tình hình đó chi phối mạnh mẽ đến tâm thức sáng tạo của nhà văn. Hơn ai hết, nhà văn là người nhạy bén với cái mới, phải có một phép ứng xử văn hóa nhằm đánh thức thiện lương con người, đưa con người trở lại với bản chất văn hóa nhân văn vốn có của nó.
Huế hôm nay, trong thời điểm nhìn lại năm mươi năm đất nước thống nhất, Huế thành phố trực thuộc Trung ương, tình hình đó đặt ra bao nhiêu vấn đề về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, môi trường sinh thái, hệ hình văn hóa... Ngay cả những thiết chế xã hội liên quan đến văn hóa, nghệ thuật cũng buộc phải có những đổi thay, nhằm bảo lưu và làm giàu có thêm đời sống văn hóa - nghệ thuật ở một vùng đất có bề dày truyền thống lâu đời. Người viết văn không thể không quan tâm đến những đòi hỏi và kỳ vọng của người đọc trước tình hình mới. Ví như, khi chạm đến những yêu cầu theo tiêu chí đạt chuẩn về các lĩnh vực dân số, diện tích, y tế, giáo dục, văn hóa, môi trường, đô thị hóa, cơ sở hạ tầng, thu nhập bình quân đầu người, mức tăng trưởng, xây dựng Nông thôn mới... không phải là những con chữ lạnh lùng, như đàn kiến bò qua dưới con mắt vô cảm, lạnh lùng của người sáng tạo, mà tự nó đã tượng hình thành những hình tượng/sinh thể nghệ thuật, không chỉ ghi dấu một thời điểm quan trọng trong lịch sử thành phố mà còn có sức sống lâu bền trong tâm tưởng nhiều thế hệ người đọc trong tương lai. Hình tượng là bản chất trừu tượng của sự vật, hiện tượng. Hình tượng văn học sáng lấp lánh từ ngôn từ. Ngôn từ sinh ra từ con chữ. Chữ chỉ là cái vỏ ngữ âm vật chất của ngôn từ. Nhưng chữ có hồn của chữ. Chữ qua tay người cầm bút hoặc gõ trên bàn phím, chữ đều mang hơi ấm, khí chất từ tâm hồn người sản sinh ra nó. Huế là vùng đất đậm đặc tài hoa thẩm mỹ. Người viết ở xứ Huế giàu có về sự tinh tế và sức mạnh về ngôn từ, trong những thời điểm lịch sử sang trang mới như hiện nay, người đọc có quyền kỳ vọng vào lực lượng cầm bút đông đảo nơi đây, nhất là những người viết trẻ. Họ chính là những người gánh trên vai trọng trách thực hiện những gì mà thế hệ đi trước chưa làm được hoặc không làm được. Có thể tiên cảm được về hình tượng một xứ Huế đẹp lung linh, rực rỡ sẽ hiện ra qua bức màn nhung thắm đỏ của tâm hồn những người viết trẻ.
Văn chương xứ Huế đã chung kết năm mươi năm với bài ca thống nhất, để bước sang một giai đoạn/ thời kỳ mới, trước một vận hội mới của một thành phố Huế trực thuộc Trung ương không ít khó khăn nhưng rực rỡ sắc màu. Mọi kỳ tích/sắc diện thẩm mỹ và những quầng sáng tương lai đang lấp lánh cuối chân trời, có sức vẫy gọi âm vang trước tầm đón đợi của mọi người. Trong bao la vô cùng tận, từng đợt sóng ngôn từ sẽ dựng cao những hình tượng kỳ vỹ cho một thời đại mới, thỏa bao nỗi khát khao, ước muốn, mong chờ.
P.P.P
(TCSH436/06-2025)
--------------
1 Trường Chinh (1987), Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại, Nxb. Sự thật, tr.66.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).
PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H
MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.
INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.
HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.
TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).
VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.
HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.
NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).
TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.
NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.
L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.
NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).
ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre), tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.
NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.
MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.
HÀ VĂN LƯỠNG Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.
TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.