1. Hòa bình, thống nhất và kỷ nguyên sáng tạo
Lịch sử văn học thành văn của nước ta không mấy suôn sẻ. Tính từ sau Công nguyên, chúng ta đã mất đi một nghìn năm Bắc thuộc, không có văn học viết bằng văn tự. Một nghìn năm tiếp theo thì có đến chín trăm năm phải dùng văn tự nước ngoài - chữ Hán, hoặc sau đó các trí thức yêu nước có sáng tạo thêm chữ Nôm, một hình thức dùng chữ Hán để ký âm tiếng Việt, gọi là văn chương quốc âm - và chỉ vỏn vẹn một trăm năm tiếp theo chúng ta mới có văn chương Quốc ngữ. Bởi vậy, ý nghĩa lịch sử những năm vắt ngang giữa hai thế kỷ XX và XXI, là vô cùng quan trọng đối với tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có tiến trình văn học. Càng có ý nghĩa lớn lao hơn, vì đó còn là quãng thời gian đất nước vừa trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, vừa hòa bình thống nhất chưa được bao lâu, lại phải đối đầu với hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Những gì chúng ta có được hôm nay, sau nửa thế kỷ nhìn lại, là sự nỗ lực của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã đem lại sự an vui và phát triển cho đất nước, trong đó có đời sống xã hội và văn chương xứ Huế.
1.1. Đất nước thống nhất và công cuộc đổi mới
Hòa bình, thống nhất là khát vọng của cả dân tộc và chúng ta phải gánh chịu nhiều hy sinh mất mát mới giành được. Nhưng sau năm 1975 với bao ngổn ngang của thời hậu chiến, cùng với niềm vui hân hoan, đoàn tụ của cả hai miền Nam Bắc là những khó khăn về kinh tế bao cấp thời chiến tranh còn tồn đọng, những thiếu thốn trăm bề. Xứ Huế nói chung và văn chương xứ Huế nói riêng, cũng không là ngoại lệ. Cũng vẫn phát huy tinh thần yêu nước vốn có của con người ở vùng đất trầm tích nhiều vỉa tầng văn hóa, tiếp tục đưa con em ra chiến trường, tích cực tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, thực hiện công cuộc đổi mới, mà trong đó không thể thiếu vai trò của người cầm bút, lực lượng quan trọng trong việc xây dựng diện mạo đời sống tinh thần của một vùng đất.
Từ bức tranh hiện thực của đất nước đang quẩn quanh trước thực trạng bao cấp, với những thiếu thốn và đòi hỏi bức bách cần phải đổi thay để phát triển, người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ là Tổng Bí thư Trường Chinh, đã có tầm nhìn chiến lược về quy luật vận động của lịch sử và nhận ra vấn đề cốt tử của vận mệnh đất nước, đề ra một quyết sách có ý nghĩa chiến lược Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại và chuyển giao cho người kế nhiệm chức vụ Tổng Bí thư là Nguyễn Văn Linh. Có thể nói, đó là một cuộc “cách mạng” làm thay đổi toàn bộ các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội, mà trước hết là thay đổi cái nhìn, tầm nhìn làm lay chuyển tâm tư nguyện vọng của toàn dân. Trong đề án thiết kế của mình, về văn học, nghệ thuật Tổng Bí thư Trường Chinh còn nêu rõ: “Ngoài việc thể hiện những con người tốt, việc tốt thì cũng phải nêu lên, phải vẽ ra những con người xấu, việc xấu để mọi người khinh ghét, tránh xa những cái xấu, làm như vậy không phải là để lên án chế độ mà để chống lại những con người, những sự việc làm trái với lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội (...), cần chú ý xây dựng trong tác phẩm của mình những hình tượng chân thực, truyền cảm, có sức thuyết phục cao về những người lao động chân chính đang lao động chân tay và trí óc quên mình, dũng cảm vượt qua mọi thiếu thốn, khó khăn, vượt qua sự cám dỗ ma quỷ để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã đề ra...”1. Đó là tiếng nói lương tâm của thời đại, là chân trời rộng mở, đánh thức cảm quan và tài năng sáng tạo cho văn nghệ sĩ cả nước, trong đó có xứ Huế vốn là nơi có truyền thống, là hằng số tự nhiên như thảm cỏ xanh ươm đầy nhựa sống sẵn dành cho văn chương nghệ thuật thăng hoa.
1.2. Đội ngũ sáng tạo - hòa chung một dòng
Có thể nói, chưa có thời điểm nào trong lịch sử văn chương xứ Huế, lại có một đội ngũ những người viết đông đảo như nửa thế kỷ qua, kể cả thời Huế còn là trung tâm của cả nước, với những thành tựu của văn chương chữ Hán, chữ Nôm và chứng kiến bước chuyển giao trong buổi giao thời của văn chương Quốc ngữ.
Nửa thế kỷ qua có đến mấy thế hệ cầm bút xuất hiện, gối đầu, đồng hành và tiếp tục bổ sung cho nhau. Thế hệ trước 1975, là những người viết đến từ nhiều nguồn, thậm chí có tính đa cực, nhưng khác với nhiều nơi ở các đô thị miền Nam, người viết văn ở Huế hội nhập, nhanh chóng hòa chung một dòng và cùng chung niềm mong ước: Xây dựng một nền văn học, văn hóa tinh thần giàu bản sắc dân tộc, đậm đà văn hóa Huế; cho dẫu ở thời điểm mười mấy năm đầu trong môi trường văn nghệ Bình Trị Thiên, hoặc sau này là văn nghệ Thừa Thiên Huế. Nguồn lực đông nhất là những người từ trên chiến khu và từ miền Bắc trở về, hoặc từ hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị nhập lại, như: Nguyễn Khoa Bội Lan, Thanh Hải, Xuân Hoàng, Lương An, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Nhuận Vỹ, Tống Hoàng Nguyên, Hải Bằng, Hoài Nguyên, Trần Phương Trà, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Quang Hà, Hà Khánh Linh, Trần Vàng Sao, Vĩnh Nguyên, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Công Tấn, Thái Ngọc San, Võ Quê, Mai Văn Tấn, Hoàng Vũ Thuật, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Vũ Mạnh Lập, Xuân Đức, Hồng Thế, Lê Đình Ty... hội nhập cùng với các tác giả sáng tác trong Nội thành, như: Phan Văn Dật, Bửu Ý, Trần Duy Phiên, Trần Hữu Lục, Trần Hồng Quang, Tần Hoài Dạ Vũ, Huỳnh Ngọc Sơn, Lê Văn Ngăn, Ngụy Ngữ, Trần Phá Nhạc, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Xuân Hoa, Trần Đại Vinh, Phan Thuận An, Lê Nhược Thủy, Nguyễn Đông Nhật, Lê Gành, Trần Đình Sơn Cước, Phạm Tấn Hầu, Văn Hữu Tứ, Trần Văn Hội, Kiều Trung Phương, Ngàn Thương, Nguyễn Thiền Nghi,... tạo nên một dòng chảy ào ạt, mênh mang theo bến bãi, bờ xa. Ngoài một số tác giả cũng sáng tác tại Nội thành, nhưng tự mình đã phân cực đối lập hoặc do hoàn cảnh cá nhân/gia đình đã bỏ đi nước ngoài, trong số phần lớn những tác giả ở lại, hầu hết đều là người từng tham gia phong trào đấu tranh đô thị, nên hầu như không có sự chững lại, mà nhanh chóng tiếp tục bắt nhịp với dòng chảy văn chương thời kỳ hòa bình, thống nhất của cả dân tộc.
Thế hệ người viết trưởng thành từ sau năm 1975 như: Nhất Lâm, Lê Gia Ninh, Nguyễn Văn Vũ, Phạm Phú Phong, Nguyễn Quang Lập, Mai Văn Hoan, Ngô Minh, Hải Kỳ, Nguyễn Thị Bích Hải, Trần Hoàng, Dương Thành Vũ, Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Hới Thọ, Hồ Thế Hà, Phạm Xuân Phụng, Lê Viết Xuân, Trần Tịnh Yên, Lê Ngã Lễ, Nguyễn Việt, Phạm Ngọc Túy, Trần Hạ Tháp, Tô Vĩnh Hà, Nguyễn Nguyên An, Nguyễn Đức Sĩ Tiến, Văn Công Toàn, Nguyễn Đức Sơn, Tôn Nữ Ngọc Hoa, Lê Thị Hoài Nam, Đỗ Văn Khoái, Lê Thị Hường, Dương Phước Thu, Nguyễn Loan, Hà Văn Lưỡng, Thúy Nga, Nguyên Quân, Việt Hùng, Ngô Cang, Nguyễn Tuất, Lê Viết Tường, Nguyễn Thị Thái,... Sự kiện chia tách và tái lập tỉnh Thừa Thiên Huế vào năm 1989, cũng gây ít nhiều xáo trộn về đội ngũ. Những người quê gốc ở hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị trở về quê để xây dựng quê hương. Một số người tình nguyện ở lại, nhận Huế là quê hương thứ hai, trong đó có cả nhiều người ở các tỉnh khác ven biển miền Trung. Ngược lại, thời gian này cũng có nhiều tác giả từ Huế, do hoàn cảnh công tác/đời sống, đã lan tỏa đến nhiều vùng đất khác nhau và tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho đời sống văn học cả nước như: Tố Hữu, Phùng Quán, Trần Phương Trà, Nguyễn Thị Ngọc Trai, Trần Thanh Đạm, Thái Vũ, Lê Trọng Sâm, Trần Duy Phiên, Trần Hữu Lục, Lê Văn Ngăn, Lê Gành, Tiêu Dao Bảo Cự, Lê Nhược Thủy, Trần Văn Hội, Trần Chi...
Một thế hệ đông đảo và sung sức, là sản phẩm của công cuộc đổi mới, đang dần trở thành chủ nhân của đời sống văn học thế kỷ XXI. Họ là những người được đào tạo tử tế, đến với văn học không phải do sự thúc bách của đời sống mà do ý thức từ trong sâu thẳm của tâm hồn, ý thức trong việc chọn đường và có thể hành nghiệp lâu dài đối với văn chương. Đó là các tác giả Lê Công Doanh, Trần Bá Đại Dương, Phạm Nguyên Tường, Nguyễn Thành, Nguyên Du, Thái Cẩm Thủy, Hà Ngọc Hòa, Nguyễn Khoa Diệu Hà, Tôn Nữ Diệu Hạnh, Nguyễn Duy Tờ, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Nguyễn Văn Quang, Đặng Thị Ngọc Phượng, Bạch Lê Quang, Nguyễn Phước Hải Trung, Phạm Thị Cúc, Nguyễn Thị Duyên Sanh, Từ Nguyễn, Hoàng Thu Thủy, Hoàng Thị Huế, Trần Huyền Sâm, Phi Tân, Nguyễn Lãm Thắng, Lê Vĩnh Thái, Lê Tấn Quỳnh, Nguyễn Văn Thuấn, Nguyễn Thống Nhất, Châu Thu Hà, Đông Hà, Lưu Ly, Trang Thùy, Nhụy Nguyên, Ngô Công Tấn, Lê Minh Phong, Nguyễn Văn Hùng, Phan Tuấn Anh, Đặng Văn Sử, Lê Vũ Trường Giang, Nguyễn Vũ Tuấn, Trần Băng Khuê, Phan Trọng Hoàng Linh, Meggie Phạm, Nguyễn Thùy Trang, Hồ Tiểu Ngọc, Triệu Nguyên Phong, Trường Thắng, Lãng Hiển Xuân,...
Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, có đến hàng trăm tác giả đang sinh sống bằng nhiều ngành nghề khác nhau, và đang rong ruổi trên con đường sáng tạo văn học. Họ vừa lao động kiếm sống vừa miệt mài sáng tạo, ngày càng bồi đắp cho nền văn chương xứ sở, để không phụ lòng thế hệ những người đi trước và không thua kém bất kỳ vùng đất nào trên cả nước, kể cả hai trung tâm lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Thành tựu về nhiều thể loại
Có thể nhận ra, cảm hứng chủ đạo của văn học xứ Huế nửa thế kỷ qua là bài ca hân hoan chào đón sự kiện thống nhất non sông, những hồi ức đau thương về chiến tranh, những ngợi ca công cuộc xây dựng đời sống trong tiến trình đổi mới. Điều đó không chỉ là nội dung mỹ cảm có ý nghĩa tập trung, mà còn hướng đến những khám phá mới về hình thức, tuân thủ những quy luật sáng tạo mới, đem lại những thành tựu có ý nghĩa căn cốt trên các lĩnh vực chủ yếu của lãnh địa văn chương như thơ, văn xuôi và nghiên cứu, lý luận, phê bình.
2.1. Thơ
Chắc là khi phát hiện ra đẳng thức Huế, đẹp và thơ (1939) từ những năm khởi đầu của văn chương Quốc ngữ, Nam Trân không căn cứ trên số lượng đội ngũ những người làm thơ ở Huế thuở ấy, mà căn cứ trên những rung động từ trong sâu thẳm của tâm hồn trước cảnh vật và con người, núi sông và cây cỏ... những tác động không ngừng của vùng sinh quyển đậm đặc chất liệu mỹ cảm, mà tự nó như nó vốn có, tự nhiên đã là nghệ thuật. Nhưng nếu tính về số lượng, vào thời điểm đó, Huế cũng áp đảo. Chỉ tính riêng trong số 46 tác giả được Hoài Thanh “bầu” vào Thi nhân Việt Nam (1942) đã có 18 tác giả trưởng thành từ Huế, lúc ấy đang sống và sáng tác tại Huế (trong đó có 7 người sinh ra và lớn lên ở Huế). Vậy là, Nam Trân đã đúng khi khẳng định nơi đây là vùng sinh quyển của mỹ cảm, của cái đẹp, cái dành cho nghệ thuật thơ.
Mỗi nhà thơ ở xứ thơ đều là chủ nhân của một gia sản giàu có, khó mà thống kê cho thật đầy đủ. Trong sự am hiểu có giới hạn của mình, mỗi tác giả chúng tôi chỉ nêu vài ba tác phẩm tiêu biểu được sáng tác trong năm mươi năm qua, như sau: Nguyễn Khoa Điềm với Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007); Vĩnh Nguyên với Mây đá nhớ nhau (1989), Chòi ngắm sóng (2004); Võ Quê với Mười thương em bé (1993), Một thuở xuống đường (2001); Lâm Thị Mỹ Dạ với Bài thơ không năm tháng (1983), Đề tặng một giấc mơ (1998), Hồn đầy hoa cúc dại (2007); Ngô Minh với Chân dung tự họa (1989), Chân sóng (1995), Thơ tặng (2007); Nguyễn Thiền Nghi với Thuở biết yêu người (1994), Giấc mơ chữ (2010); Ngàn Thương với Nến chiều (2002), Giấc khuya (2013); Lê Ngã Lễ với Chiêm bao (1998), Lục bát bồng bềnh (2003); Triệu Nguyên Phong với Say nắng (2004), Rơm rạ chiều quê (2011); Trần Tịnh Yên với Nẻo quyên ca (2000), Gai sen (2014); Nguyễn Khắc Thạch với Dòng sông một bờ (1989), Mưa hai mặt (2002); Mai Văn Hoan với Ảo ảnh (1988), Lục bát thơ (2006); Đức Sơn với Dấu lạ (2005); Văn Công Toàn với Khúc ru tình (2014); Huỳnh Dung với Dấu yêu tình đầu (2021), Chợt tỉnh mơ hoa (2023); Lê Viết Xuân với Thơ viết cho em (1988), Gió kể (2014); Từ Nguyễn với Như một nỗi đời riêng (2009), Nhặt lá mùa xưa (2011); Nguyễn Duy Tờ với Huế mùa đông 1999 (trường ca, 2019), Đất thiêng (trường ca, 2023); Nguyễn Văn Quang với Vay mượn trần gian (2005), Trở dạ (2014); Bạch Diệp với Vũ điệu lam (2011), Mùa Bạch Diệp (2020); Phạm Nguyên Tường với Hoa cúc mùa thu (1994), Quang gánh và những bài thơ khác (2006); Nguyễn Lãm Thắng với Điệp ngữ tình (2007), Đầu non cuối bãi (2014); Lê Vĩnh Thái với Ký ức xanh (2004), Ngày không nhớ (2010); Lê Tấn Quỳnh với Linh ngọc (1998), Những giỏ hoa của thời gian (2014); Đông Hà với Người đàn bà che mặt (2010), Đi ngược đám đông (2014); Châu Thu Hà với Khúc đêm (2002); Nhận mặt thời gian (2023); Lưu Ly với Gọi em ở cuối thiên đường (2007); Ngô Công Tấn với Vòng tay mưa (2013)...
Cũng từ góc độ số lượng, thời kỳ này những nhà thơ ở Huế không những đông, số lượng tác phẩm được ấn hành khá nhiều, mà còn có cả những cây bút văn xuôi có tham gia làm thơ và loại thể nào cũng hay, không thua kém gì nhau. Các cây bút văn xuôi như Hồng Nhu có các tập thơ Ngẫu hứng về chiều (1988), Nước mắt đàn ông (1992), Chiếc tàu cau (1995), Rêu đá (1998); Hoàng Phủ Ngọc Tường có Dấu chân qua thành phố (1976), Người hái phù dung (1992); Nguyễn Quang Hà có Nghe tiếng gà trên điểm chốt (1976), Gửi em cô gái đỏng đảnh (2019); Hà Khánh Linh có Trăng cứu rỗi (1995), Những bọt bóng màu (1998); Nhất Lâm có Vú đá (2009); Nguyễn Nguyên An có Cơn mê của gió (2011); Phạm Xuân Phụng có Nỗi buồn của Chúa (2010); Nguyên Quân có Nhảy múa cùng smartphone (2021); Nguyễn Quang Lập có Kỷ niệm thời trai trẻ (1988); Hồ Đăng Thanh Ngọc có Đi qua cánh rừng (2009), Chiếc ô đi lẻ (2013); Nhụy Nguyên có Lập thiền (2011), Khi người ta cúi mặt (2016)... Chưa kể các nhà nghiên cứu lý luận, phê bình cũng có những tập thơ hay, đạt các giải thưởng cao như: Nguyễn Xuân Hoa, Hồ Thế Hà, Nguyễn Phước Hải Trung, Phan Tuấn Anh.
Nhìn chung, những tác giả tiêu biểu cho giọng điệu thơ Huế, được bạn đọc quan tâm và đạt các giải thưởng cao ở Trung ương và địa phương trong thời gian qua là Nguyễn Khoa Điềm, Hồng Nhu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Khắc Thạch, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ngô Minh và nhiều người khác nữa. Trong thơ của những tác giả này không chỉ thể hiện tâm thức của con người xứ Huế với nhiều vỉa tầng văn hóa, những nội dung mỹ cảm của sông núi, cỏ cây, hoa lá, mà còn hướng đến những vấn đề mà cả nước quan tâm, trong xu thế đổi mới và hội nhập với thế giới, trong vòng khí quyển của hòa bình, độc lập, thống nhất, với tư thế: “Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật/ Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời” (Nguyễn Khoa Điềm). Thơ Huế bây giờ không chỉ thể hiện sự vận động của lý tưởng thẩm mỹ, mà còn đổi mới một cách triệt để về thi pháp biểu hiện.
2.2. Văn xuôi
Đối với văn chương tưởng tượng, nói đến văn xuôi là chủ yếu gồm ba thể văn chủ lực của văn học hiện đại là tiểu thuyết, truyện ngắn và các tiểu loại ký. Về đặc trưng thể loại, các thể văn này có mối quan hệ gần gũi, có sự giao thoa, tích hợp và xuyên thấm lẫn nhau, cũng có người thành công với nhiều thể văn, nhưng cũng tùy thuộc vào “cái tạng” của mỗi người, trong từng thời kỳ sáng tạo có thể có những thành công khác nhau. Ví như, đối với nhà viết ký tài hoa Hoàng Phủ Ngọc Tường, cho dù có khi ông viết truyện dài như Bản di chúc của cỏ lau (1986) nhưng vẫn phảng phất “mùi” bút ký. Với cây bút truyện ngắn xuất sắc Hồng Nhu, thì các truyện dài Vẫn chuyện phiêu lưu (1985), Đồi trở gió (2008) cũng chỉ là những truyện ngắn viết dài. Ngược lại, cây bút nữ mang đậm tâm thức xứ Huế như Trần Thùy Mai, đã định hình khi gặt hái nhiều thành công với thể loại truyện ngắn từng được bạn đọc chú ý lâu nay, mấy năm gần đây lại nổi bật với tiểu thuyết dài tập, khi chị cho công bố các tiểu thuyết lịch sử Từ Dụ Thái hậu (2 tập, 2018), Công chúa Đồng Xuân (2 tập, 2023).
Các tác giả tiểu thuyết có nhiều thành công tiêu biểu như Nguyễn Khắc Phê với Chỗ đứng người kỹ sư (1980), Biết đâu địa ngục thiên đường (2010); Tô Nhuận Vỹ với Dòng sông phẳng lặng (3 tập, 1973 - 1984), Vùng sâu (2012); Nguyễn Quang Hà với Thời tôi mặc áo lính (1990), Vùng lõm (2008); Hà Khánh Linh với Chiến tranh và sau chiến tranh (1989), Lửa kinh đô (2010); Dương Thành Vũ với Nguyệt thực (1999); Phạm Ngọc Túy với Bình minh ơi trở lại (2008); Nguyễn Nguyên An với Trường Đại học của tôi (2007), Bầu trời cổ tích (2010); Nguyễn Việt với Đằng sau hồ sơ chết (1987), Người lính đào hoa (2000); Tô Vĩnh Hà với Tro và lửa lạnh (1998), Em biết anh là ai (2001); Meggie Phạm với Hoàng tử và em (2010), Tôi và em (2013)... Ở thể loại này, những người có đóng góp sung sức nhất là Hà Khánh Linh với 21 tác phẩm, Nguyễn Quang Hà với 17 tác phẩm, Nguyễn Khắc Phê với 10 tác phẩm và cây bút trẻ Meggie Phạm với 5 tác phẩm. Các tác giả truyện ngắn tiêu biểu như Hồng Nhu với Thuyền đi trong mưa ngâu (1995), Lễ hội ăn mày (2001); Phạm Xuân Phụng với Câu chuyện bên hồ (1997), Nghệ thuật lửa (2000); Nguyễn Thị Duyên Sanh với Nơi ấy sẽ là nhà (2019), Vẫn còn nắng trên đồi (2022); Việt Hùng với Cô gái hoàng hôn (1997), Sứ giả (2010); Bạch Lê Quang với Thõng tay vào chợ (2010); Lê Minh Phong với Chưa đủ để gọi là khoảnh khắc (2011), Trong tiếng reo của lửa (2014); Lê Vũ Trường Giang với Ngủ giữa trùng sơn (2013), Bạc màu áo ngự (2023)... Ở các tiểu loại ký, nổi bật là Hoàng Phủ Ngọc Tường với Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1986); Nguyễn Văn Dũng với Linh Sơn mây trắng (2006), Lời tự tình của một dòng sông (2013); Hồ Đăng Thanh Ngọc với Chuyện Huế (2008), Đôi triêng gióng của mạ (2011); Nguyễn Xuân Hoàng với Ký ức quỳnh hương (2007), Cõi tạm phù hoa (2011); Nguyên Du với Nhất Huế nhì Sịa (2020), Sông Hương đôi bờ thương nhớ (2021); Phi Tân với Về Huế ăn cơm (2021), Bên sông Ô Lâu (2022)...
Đặc biệt, xứ Huế có nhiều tác giả đa tài, thành công với nhiều thể loại, như Hồng Nhu, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Quang Hà, Vĩnh Nguyên, Nhất Lâm, Hà Khánh Linh, Ngô Minh, Nguyên Quân, Phạm Nguyên Tường...
2.3. Nghiên cứu, lý luận, phê bình
Cứ nhìn vào bảng lược đồ văn học cả nước, trong năm mươi năm qua, sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, thì Huế vẫn là một trong ba trung tâm văn chương của cả nước. Bởi, Huế là trung tâm đào tạo đại học có truyền thống lâu đời, có các tạp chí nghiên cứu chuyên sâu như: Huế xưa và nay, Nghiên cứu Huế, Khoa học và phát triển, và nhất là Tạp chí Sông Hương - cơ quan ngôn luận của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, ra đời trước thềm của công cuộc đổi mới (1983).
Có đến mấy thế hệ những người viết nghiên cứu, lý luận, phê bình hành nghiệp trên đất Huế mấy mươi năm qua. Đó là lực lượng tại chỗ từng có những đóng góp nghiên cứu, dịch thuật trong Nội thành trước năm 1975, trong đó có cả những người hoạt động trong phong trào yêu nước đô thị như: Bửu Ý,... lại được bổ sung bởi đội ngũ các tác giả từ miền Bắc và trên chiến khu trở về như: Lương An, Nguyễn Văn Hạnh, Phạm Văn Sĩ, Phan Ngọc Thu, Trường Ký, Lê Xuân Việt, Tạ Đình Nam, Khải Phong... Ở thời kỳ mở đầu sau ngày đất nước thống nhất, cuộc sống còn bao cấp, giấy in cũng khan hiếm, hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình chưa có gì nổi bật, chỉ có mấy công trình tác phẩm, những bài phê bình, điểm sách in trên các báo của Lê Xuân Việt là đáng chú ý.
Lực lượng nghiên cứu, lý luận, phê bình nhanh chóng phát triển trong đội ngũ giảng viên ở hai Trường Đại học Sư phạm và Đại học Tổng hợp (nay là Đại học Khoa học), nhằm nâng cao trình độ của những thầy cô giáo thành các nhà khoa học, thông qua hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình. Về tuổi tác có thể chênh nhau dăm ba tuổi, nhưng họ xuất hiện gần như cùng lúc, tự đào tạo/ hoàn thiện trở thành những cây bút chủ lực trong hoạt động học thuật với nhiều hình thức tọa đàm, hội nghị, hội thảo, in ấn và công bố công trình, tác phẩm đầy sôi động gần nửa thế kỷ qua: Phan Hứa Thụy, Triều Nguyên, Nguyễn Thị Bích Hải, Trần Hoàng, Trần Thái Học, Lê Thị Bích Lộc, Phạm Phú Phong, Hồ Thế Hà, Nguyễn Thành, Lê Thị Hường, Dương Phước Thu, Phan Thị Đào, Hà Văn Lưỡng, Đặng Thị Ngọc Phượng... Những người viết khỏe như Hồ Thế Hà, Phạm Phú Phong, Dương Phước Thu, Trần Hoàng, đã là chủ nhân của vài chục đầu sách, tuân thủ theo một hệ thống quan niệm và phong cách riêng, khẳng định tư cách chuyên gia về một số lĩnh vực nhất định. Hồ Thế Hà vận dụng phân tâm học vào nghiên cứu, phê bình thơ Việt Nam hiện đại; Phạm Phú Phong vận dụng thi pháp học hiện đại vào giải mã văn xuôi và tiến trình văn học; Dương Phước Thu vận dụng văn bản học vào nghiên cứu báo chí, văn hóa Huế; Trần Hoàng thành công với công việc sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian miền Trung... Bên cạnh đó, còn phải kể đến các nhà sáng tác có tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu, phê bình và đã đem lại những thành công đáng ghi nhận như: Nguyễn Khắc Phê, Mai Văn Hoan, Meggie Phạm, Lưu Ly.
Đặc biệt, từ sau đổi mới (1986) đến những năm đầu của thế kỷ XXI, đã xuất hiện các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học trẻ, một thế hệ mới với phương pháp và góc nhìn, giọng điệu và cảm thức đều mới mẻ - thế hệ những người được đào tạo bài bản, có khả năng làm thay đổi diện mạo tương lai văn học của xứ sở và đất nước: Trần Huyền Sâm, Hoàng Thị Huế, Nguyễn Văn Thuấn, Thái Phan Vàng Anh, Nguyễn Văn Hùng, Phan Tuấn Anh, Thanh Tâm Nguyễn, Phan Trọng Hoàng Linh... Cùng với các nhà sáng tác trẻ, lớp người này mang lại những tín hiệu mới và kỳ vọng cho người đọc trong tương lai.
3. Những tín hiệu mới với nhiều kỳ vọng
Nghệ thuật và đổi mới có cùng một bản thể không chia cắt. Từ trong bản thể của nghệ thuật luôn thể hiện quy luật không lặp lại. Đành là vậy, nhưng nhìn chung không chỉ có nghệ thuật, mà sự sáng tạo nào cũng là sáng tạo cái mới. Nhưng ở đây, những tín hiệu mới đáng để người ta kỳ vọng, là những nhân tố mới mang bản lĩnh văn hóa triệt để một cách toàn diện, đáp ứng sự mong đợi và kỳ vọng của mọi người trong tiến trình vận động của đời sống xã hội và lịch sử nghệ thuật. Khác với các lĩnh vực khác, lịch sử là cái đã qua/thuộc về quá khứ, còn đối với nghệ thuật, lịch sử là cái còn lại/thuộc về hiện tại và tương lai.
3.1. Tín hiệu mới từ phía người sáng tạo
Không khí đổi mới đã mở ra cả một chân trời cao rộng cho sáng tạo nghệ thuật. Đổi mới cũng bắt đầu từ những con người cũ. Thật khó mà vượt qua những thói quen cũ, trong cách nghĩ, cách làm với cái nhìn và cảm quan đã từng ăn sâu trong tâm thức, nên không thiếu những lực cản, những lúng túng, bùng nhùng đôi khi khó gỡ. Nhưng đối với thế hệ trẻ, đổi mới vẫn nguyên vẹn giá trị và không thể đảo ngược. Họ được tiếp thu một cách cẩn trọng và có chọn lọc các trào lưu mới một cách chính đáng, từ việc nhận thức đúng bản chất của các trào lưu hiện đại, tiếp thu chủ nghĩa hậu hiện đại, tân hình thức, liên văn bản, liên văn hóa, nữ quyền luận, phê bình sinh thái... Cái mới đến với người trẻ là trinh nguyên, tươi mới và nguyên vẹn, được tiếp thu bởi những cảm quan không vướng phải những bụi bặm của cuộc đời, lại phù hợp với giọng điệu mới mẻ của người mới bước chân vào con đường hành nghiệp. Sinh thời, cố họa sĩ Bửu Chỉ có câu nói lặp đi lặp lại cửa miệng như một tuyên ngôn nghệ thuật rằng: “Bằng chính tôi, tôi đến với cuộc đời!” Câu này, xem ra rất phù hợp với những người sáng tạo trẻ hôm nay.
Chỉ riêng với lĩnh vực văn chương nghệ thuật, một lĩnh vực mà tự thân nó đã luôn phải mới, thì dường như về mặt chủ thể, khi đề ra đổi mới là nhằm hướng đến những con người cũ, đòi hỏi họ phải nghĩ khác, xoay nhìn theo hướng khác, đi theo con đường khác, nói bằng một giọng điệu khác... Còn đối với thế hệ trẻ, những người trưởng thành trong vòng sinh quyển của công cuộc đổi mới, từ hơi thở đến giọng điệu tâm hồn đều thấm đẫm cái mới, là sản phẩm của thời đại, họ đích thị là nhân tố mới của thời đại hôm nay.
Điều đáng mừng là những tín hiệu mới, đến từ cả những người sáng tác lẫn nghiên cứu, lý luận, phê bình. Ở phía những người sáng tác, nổi lên những gương mặt trẻ như: Nhụy Nguyên, Lê Minh Phong, Lê Vũ Trường Giang, Trần Băng Khuê, Nguyễn Vũ Tuấn, trong đó có cả những người tuổi đời không còn trẻ, nhưng chỉ mới chạm tay vào cánh cửa văn chương là trở thành nhà văn như: Nguyễn Thị Duyên Sanh, Nguyên Du, Nguyễn Khoa Diệu Hà, Phi Tân. Ở phía những người nghiên cứu, phê bình đội ngũ đông hơn, nhờ có môi trường học thuật của xứ Huế, như câu nói đã quá cũ, rằng: “Lý luận có khi đi trước một bước”, nhưng lại đúng trong trường hợp này. Đó là các tác giả như: Trần Huyền Sâm, Nguyễn Văn Thuấn, Thái Phan Vàng Anh, Nguyễn Văn Hùng, Thanh Tâm Nguyễn... Cá biệt, có những người nổi bật cả sáng tác lẫn nghiên cứu, phê bình như Phan Tuấn Anh, tác giả của các tập thơ Người ngủ muộn, Đoản khúc và các công trình Gabriel Garcia Márquez và nỗi cô đơn huyền thoại, Văn học Việt Nam đổi mới - từ những điểm nhìn tham chiếu và Những khu vực văn học ngoại biên; hoặc trường hợp Meggie Phạm, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn 5 tập Hoàng tử và em, Giám đốc và em, Chàng và em, Người xa lạ và em, Tôi và em, đã được tái bản nhiều lần và công trình nghiên cứu về văn học đô thị miền Nam Chút nắng phương Nam (in chung). Cần phải nói thêm, cũng có một vài cây bút, mới xuất hiện chưa được bao lâu đã báo hiệu về bản lĩnh và tài năng, như những cơn mưa đầu mùa có tia chớp, tiếc rằng đã sớm vội đi xa, như trường hợp Lê Viết Tường, hoặc Nguyễn Xuân Hoàng.
Mỗi người chỉ sống và làm việc trong một thời đại nhất định. Nhà văn là người phát ngôn cho thời đại của mình. Không ai có khả năng nói thay cho tất cả mọi thời. Vì vậy, điều quan trọng không chỉ là ở con người/nhân vật, ở cách nhìn và cảm quan nằm sâu trong tâm thức sáng tạo, mà còn ở giọng điệu tâm hồn, được biểu hiện thành sức mạnh của ngôn từ có thể làm lung lay tâm tưởng của nhiều thế hệ người đọc, soi chiếu nguồn sáng văn hóa nhân văn lên bức tường vách của thời gian, đang cần có sự đổi thay một cách bức thiết và triệt để, và dường như, cũng đang thao thiết gọi mời tiếng nói của tri âm. Những tín hiệu mới được phát ra, có sức vẫy gọi mạnh mẽ đối với mọi người, cũng là sức sống lâu bền trong tâm tưởng của người đọc văn chương. Nhìn từ phía khác, những tín hiệu mới không chỉ phát ra từ chân trời rộng rinh của sáng tạo, mà còn tạo ra từ môi sinh cuồn cuộn chảy một cách có ý thức của người thưởng thức nghệ thuật, là sự tự giác đòi hỏi riết róng về những kỳ vọng mới của chính họ, trước một thiết chế xã hội mới, trong thời đại mới - một thế giới phẳng có ý nghĩa toàn cầu.
3.2. Kỳ vọng của người đọc
Nửa thế kỷ văn học hòa bình, thống nhất cũng là thời gian vắt ngang cân đối giữa hai thế kỷ XX và XXI. Đó cũng là thời gian mà cả thế giới đã trải qua những biến động dữ dội chưa từng có, có sự chia phe, phân luồng, phân cực một cách phức tạp, với bao cuộc đối thoại, đối đầu, thậm chí có cả những cuộc chiến tranh đẫm máu giữa các láng giềng. Tình hình đó chi phối mạnh mẽ đến tâm thức sáng tạo của nhà văn. Hơn ai hết, nhà văn là người nhạy bén với cái mới, phải có một phép ứng xử văn hóa nhằm đánh thức thiện lương con người, đưa con người trở lại với bản chất văn hóa nhân văn vốn có của nó.
Huế hôm nay, trong thời điểm nhìn lại năm mươi năm đất nước thống nhất, Huế thành phố trực thuộc Trung ương, tình hình đó đặt ra bao nhiêu vấn đề về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, môi trường sinh thái, hệ hình văn hóa... Ngay cả những thiết chế xã hội liên quan đến văn hóa, nghệ thuật cũng buộc phải có những đổi thay, nhằm bảo lưu và làm giàu có thêm đời sống văn hóa - nghệ thuật ở một vùng đất có bề dày truyền thống lâu đời. Người viết văn không thể không quan tâm đến những đòi hỏi và kỳ vọng của người đọc trước tình hình mới. Ví như, khi chạm đến những yêu cầu theo tiêu chí đạt chuẩn về các lĩnh vực dân số, diện tích, y tế, giáo dục, văn hóa, môi trường, đô thị hóa, cơ sở hạ tầng, thu nhập bình quân đầu người, mức tăng trưởng, xây dựng Nông thôn mới... không phải là những con chữ lạnh lùng, như đàn kiến bò qua dưới con mắt vô cảm, lạnh lùng của người sáng tạo, mà tự nó đã tượng hình thành những hình tượng/sinh thể nghệ thuật, không chỉ ghi dấu một thời điểm quan trọng trong lịch sử thành phố mà còn có sức sống lâu bền trong tâm tưởng nhiều thế hệ người đọc trong tương lai. Hình tượng là bản chất trừu tượng của sự vật, hiện tượng. Hình tượng văn học sáng lấp lánh từ ngôn từ. Ngôn từ sinh ra từ con chữ. Chữ chỉ là cái vỏ ngữ âm vật chất của ngôn từ. Nhưng chữ có hồn của chữ. Chữ qua tay người cầm bút hoặc gõ trên bàn phím, chữ đều mang hơi ấm, khí chất từ tâm hồn người sản sinh ra nó. Huế là vùng đất đậm đặc tài hoa thẩm mỹ. Người viết ở xứ Huế giàu có về sự tinh tế và sức mạnh về ngôn từ, trong những thời điểm lịch sử sang trang mới như hiện nay, người đọc có quyền kỳ vọng vào lực lượng cầm bút đông đảo nơi đây, nhất là những người viết trẻ. Họ chính là những người gánh trên vai trọng trách thực hiện những gì mà thế hệ đi trước chưa làm được hoặc không làm được. Có thể tiên cảm được về hình tượng một xứ Huế đẹp lung linh, rực rỡ sẽ hiện ra qua bức màn nhung thắm đỏ của tâm hồn những người viết trẻ.
Văn chương xứ Huế đã chung kết năm mươi năm với bài ca thống nhất, để bước sang một giai đoạn/ thời kỳ mới, trước một vận hội mới của một thành phố Huế trực thuộc Trung ương không ít khó khăn nhưng rực rỡ sắc màu. Mọi kỳ tích/sắc diện thẩm mỹ và những quầng sáng tương lai đang lấp lánh cuối chân trời, có sức vẫy gọi âm vang trước tầm đón đợi của mọi người. Trong bao la vô cùng tận, từng đợt sóng ngôn từ sẽ dựng cao những hình tượng kỳ vỹ cho một thời đại mới, thỏa bao nỗi khát khao, ước muốn, mong chờ.
P.P.P
(TCSH436/06-2025)
--------------
1 Trường Chinh (1987), Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại, Nxb. Sự thật, tr.66.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.