Những trống trải huy hoàng*

09:21 20/08/2014

Cảnh quan bầu trời làm tôi mê đắm. Tôi mê đắm khi nhìn thấy một mảnh trăng non hay một vầng thái dương giữa bầu trời mênh mông. Trong tranh của tôi, có những hình thể nhỏ bé trong một không gian trống trải vô biên. Những không gian trống, những chân trời trống, những mặt phẳng trống – tất cả những gì trần trụi đều để lại ấn tượng đặc biệt sâu đậm trong tôi.

Joan Míro - Blue III, sơn dầu, 1961

Khi mới đi vào hội họa, những họa sĩ gây ấn tượng mạnh với tôi là Van Gogh, Cézanne, Rousseau – người thu thuế1. Khi tôi biết yêu tranh của Rousseau, cũng là lúc tôi biết yêu mỹ thuật bình dân. Càng lớn, tôi lại càng nhận thấy tầm quan trọng của loại hình mỹ thuật này đối với mình. Một chiếc chĩa để xóc cỏ khô được người nông dân uốn khéo léo, đối với tôi, giống như một tác phẩm nghệ thuật.

Sự bất động luôn làm tôi chú ý. Cái chai này, chiếc ly này, hòn đá to trên bờ biển hoang vắng – đó là những thứ hoàn toàn bất động nhưng trong tâm trí của tôi, chúng lại khơi gợi những chuyển động lớn. Tôi không cảm nhận được điều này ở những người lúc nào cũng xê dịch một cách thật xuẩn ngốc. Những người tắm nắng trên bãi biển hay những người cứ đi đi lại lại đều để lại ấn tượng trong tôi ít hơn sự bất động của một viên đá cuội. (Những thứ bất động trở nên lớn lao, lớn lao hơn rất nhiều so với những vật chuyển động.) Sự bất động làm tôi nghĩ đến những không gian lớn, ở đó diễn ra những sự vận động không dừng lại tại một thời điểm định sẵn nào, những sự vận động không có kết thúc. Nó, như Kant nói, là sự xâm nhập tức thì của cái vô hạn trong cái hữu hạn. Một viên đá cuội là một vật thể hữu hạn và bất động làm tôi không chỉ liên tưởng đến những vận động mà còn là những vận động không có kết thúc. Trên toan của tôi, ý niệm này được hữu hình hóa bởi các hình thể tương tự những tia lửa bắn ra khỏi khung tranh như thể chúng vụt trào lên khỏi miệng núi lửa.

Khi không còn đường chân trời, cũng như không còn chỉ dấu của bề sâu, các hình thể này được xê dịch tứ tán. Chúng cũng bị xê dịch trên mặt phẳng, vì một màu sắc hoặc một đường nét cũng tất yếu dẫn đến sự xê dịch của góc nhìn. Bên trong những hình thể lớn, những hình thể nhỏ chuyển động.

Cái mà tôi kiếm tìm, trên thực tế, là sự chuyển động bất động, một thứ gì đó tương đương với cái được gọi là sự hùng biện của im lặng, hay điều mà Thánh John Thập tự3 muốn nói bằng ngôn ngữ của âm nhạc câm – tôi tin là vậy.

Tôi bắt đầu những bức tranh của mình từ hiệu ứng của một nhận thức đột ngột, gây sửng sốt, cũng là thứ khiến tôi phải chạy trốn khỏi hiện thực. Nhận thức đột ngột ấy có thể bắt nguồn từ một vệt màu nhỏ dây ra ngoài toan vẽ, một giọt nước rơi, một dấu vân tay mà tôi để lại trên mặt bàn sáng bóng.

Trong bất cứ trường hợp nào, tôi cũng cần một xuất phát điểm, kể cả đó có thể chỉ là một hạt bụi hay một tia sáng chợt lóe. Hình thức này đẻ ra một loạt các sự vật, sự vật này sinh ra sự vật kia.

Và như thế, một vệt màu nhỏ cũng có thể tạo ra một thế giới chuyển động. Tôi khởi sự từ một cái gì đó được xem như đã chết, để rồi đi đến một thế giới. Và khi đặt tên cho một bức tranh, nó thậm chí còn trở nên sống động hơn.

Ở một bức tranh, mỗi lần xem nó, ta hoàn toàn có thể khám phá những thứ mới mẻ. Song bạn cũng có thể nhìn một bức tranh suốt cả một tuần rồi không bao giờ nhớ đến nó nữa. Và bạn cũng có thể chỉ nhìn bức tranh trong một giây và cả đời sẽ luôn bị ám ảnh bởi nó. Đối với tôi, một bức tranh nên giống như những tia lửa. Nó phải chói lóa như vẻ đẹp của một phụ nữ hay của một bài thơ. Nó phải có sự huy hoàng, nó phải giống như những hòn đá mà những người chăn cừu trên rặng núi Pyrenees dùng để châm lửa cho tẩu thuốc của mình.

Tôi muốn đạt đến độ căng ở mức tối đa bằng sự tối thiểu của phương tiện. Chính điều này khiến tôi thường dành một khoảng lớn trong tranh của mình cho sự trống trơn.

Ý hướng về sự trống trơn và đơn giản được tôi hiện thực hóa ở ba bình diện: dựng mô hình, dùng màu sắc và hình tượng hóa nhân vật.

Năm 1935, trong tranh của tôi, không gian và các hình thể vẫn còn được dựng theo mô hình. Tôi vẫn dùng phép tương phản sáng-tối trong tranh. Nhưng dần dần, tất cả biến mất. Đến khoảng năm 1940, việc dựng mô hình và phép tương phản sáng tối hoàn toàn bị loại bỏ.

Một hình thức theo mô hình ít gây ấn tượng hơn cái không theo mô hình. Mô hình ngăn chặn sự bất ngờ và giới hạn các chuyển động vào chiều sâu thị giác đơn thuần. Không dùng mô hình hay phép tương phản, chiều sâu trở thành cái phi giới hạn: các chuyển động có thể được căng ra đến vô tận.

Từng chút một, tôi đã đi đến giai đoạn chỉ sử dụng một số ít các hình thể và màu sắc. Đây không phải là lần đầu tiên hội họa được thể nghiệm với một bảng màu rất hạn chế. Các tranh bích họa ở thế kỷ X đã được vẽ như thế. Với tôi, đó thật sự là những tác phẩm mỹ lệ.


Joan Míro (1893-1983)

Joan Míro học hội họa tại quê hương ông, Barcelona. Những bức tranh trong triển lãm cá nhân đầu tiên của ông vào năm 1918 cho thấy niềm hứng thú của ông đối với đời sống nông thôn xứ Catalan. Năm 1919, Míro thăm Paris. Trong khoảng thời gian ấy, ông chịu ảnh hưởng từ phong cách lập thể của người bạn mình, Picasso. Tuy nhiên, đến đầu những năm 1920, khi định cư tại Paris, ông đã chuyển sang nhóm siêu thực. Trí tưởng tượng của Míro được giải phóng khi ông tiếp cận với ý niệm của các nhà siêu thực về vô thức sáng tạo. Từ đó, trong suốt cuộc đời nghệ thuật của mình, ông đã luôn cố gắng trung thành với những xung động từ trực giác hay vô thức. Sự huyễn tưởng đã dẫn ông đi đến chỗ kết hợp yếu tố trừu tượng và hình tượng trong cả hội họa và điêu khắc.


(1958)
Joan Míro
Hải Ngọc dịch

Nguồn: Twentieth – Century Artists on Arts, ed.by Dore Ashton, NY:Pantheon Books, 1985, trang 8-10.

-------------

* Nhan đề do người dịch đặt.

1 Henri Rousseau (1844-1910), họa sĩ người Pháp thuộc trường phái Hậu Ấn tượng. Sinh thời, ông vốn làm nhân viên thu thuế và tự học để trở thành một họa sĩ tên tuổi.

2 Thánh John Thập tự (St. John of the Cross – 1542-1591), tu sĩ người Tây Ban Nha - một nhân vật lớn trong cuộc Cải cách Công giáo đồng thời là một nhà thơ thần bí.

Theo Tia Sáng

 

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Sau nửa thế kỷ miệt mài sáng tác, họa sĩ Lê Hàn đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật, giành được nhiều giải thưởng uy tín. Nhưng nhắc đến sự nghiệp của ông, người yêu hội họa nhớ mãi những bức tranh vẽ chân dung phụ nữ bình dị mà vẫn toát lên vẻ đẹp nội tâm sâu thẳm.

  • KHẢ HÂN

    Trào lưu nghệ thuật nữ quyền luận xuất hiện vào khoảng cuối những năm 1960 với những tên tuổi như Judy Chicago, Miriam Schapiro, Martha Rosler, Barbara Kruger, Hannah Wilke…

  • Ngày 8-3 tới, triển lãm “Giá Thánh”- một góc nhìn đặc biệt về tín ngưỡng Thờ mẫu của họa sĩ Trần Tuấn Long sẽ được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam. Đây là triển lãm hội họa về tín ngưỡng Đạo Mẫu đầu tiên sau khi được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

  • Say mê nghệ thuật, đi nhiều, vẽ nhiều, họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ có nhiều tác phẩm hội họa giá trị, nhiều đóng góp cho sự phát triển của mỹ thuật Việt Nam...

  • Nếu nói Đỗ Phấn là người nổi bật nhất xét trên khía cạnh vừa vẽ, vừa viết trong giới văn nghệ cũng thấy không ngoa chút nào.

  • KHẢ HÂN

    Nghệ thuật xếp đá là một loại hình nghệ thuật trình diễn được thực hiện qua việc tạo ra sự cân bằng tự nhiên lên trên đỉnh của một viên đá ở nhiều vị trí khác nhau.

  • Cuộc gặp gỡ của thi ca và hội họa đã là một truyền thống ở các nước Á Đông cũng như ở Việt Nam.

  • KHẢ HÂN

    Julie Mehretu, sinh năm 1970  ở Ethiopia, là một nhà họa sĩ, hiện đang sống và làm việc tại New York.

  • Nguyễn Sáng vẽ Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ vào năm 1956, kích thước 112,3 x 180 cm, chất liệu sơn mài. Ngay sau khi hoàn thành, bức tranh đã dấy lên nhiều tranh cãi gay gắt trong giới mỹ thuật.

  • KHẢ HÂN

    Nghệ thuật mandala là một loại hình nghệ thuật tiêu biểu của truyền thống Phật giáo Tây Tạng.

  • Ngày 14/12, tại Hà Nội, Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức kỷ niệm 110 năm ngày sinh họa sỹ Tô Ngọc Vân (15/12/1906-15/12/2016) - một trong những danh họa hàng đầu của nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại.

  • Trong các nghiên cứu về danh họa Nguyễn Gia Trí, lác đác có vài nhận xét: Nguyễn Gia Trí chịu ảnh hưởng từ nữ họa sĩ người Pháp Alix Aymé thời cận đại (Mỹ thuật Đông Dương). Vậy Alix Aymé là ai?

  • TUỆ NGỌC

    Robert Rauschenberg sinh năm 1925 tại Port Arthur, Texas, Mỹ, được xem là một trong những nghệ sĩ tiền phong hàng đầu Hoa Kỳ.

  • PHƯỚC VĨNH

    Cách đây tròn 70 năm, năm 1946, họa sĩ Tô Ngọc Vân cùng họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung và nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim được Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam cử vào Bắc Bộ phủ xin vẽ Hồ Chủ tịch.

  • Victor Tardieu (1870 – 1937) thường được nhắc đến với vai trò sáng lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Tuy nhiên, sức ảnh hưởng của ông đến hội họa Việt Nam đầu thế kỷ 20 còn sâu sắc hơn thế.

  • HẠ NGUYÊN  

    Từ ngày 3/9 đến 12/9, danh họa Nguyễn Đại Giang đã về Huế bày tranh nghệ thuật đảo ngược. Một cuộc triển lãm kỳ thú, và cả những hoạt động của ông cũng góp phần làm cho Huế sôi động: vẽ ký họa chân dung cho công chúng, nói chuyện với sinh viên Đại học Nghệ thuật Huế, tặng cho Bảo tàng Mỹ thuật Huế 3 bức tranh, trong đó có bức “Ca Huế trên sông Hương” thật sự tuyệt mỹ …

  • TUỆ NGỌC

    Có lẽ, trong lĩnh vực hội họa khó có nữ họa sĩ nào hơn được Frida Kahlo trong việc biến nỗi đau thành suối nguồn nghệ thuật.

  • HUỆ VIÊN

    Công án - một phương pháp khai phóng tư duy
    Trong các công án Thiền, có rất nhiều cách giáo hóa của các vị chân sư rất phũ phàng, thậm chí điên khùng, nhưng nó lại có tác dụng kì lạ, làm cho học trò kinh ngạc, bất ngờ giác ngộ.