Những tâm hồn trẻ thơ trong văn Thạch Lam

09:44 02/11/2020

Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).

Vẻ đẹp tâm hồn của những đứa trẻ trong trang văn Thạch Lam mãi như là những cơn gió nhẹ thổi qua triền sông, để lại cái mát lành trong tâm hồn người đọc. Ảnh minh họa (nguồn IT)

Trong thế giới nghệ thuật của mình, nhà văn đặc biệt dành tình cảm ấm áp cho những đứa trẻ với vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo, ngây thơ. Gió lạnh đầu mùa và Hai đứa trẻ là hai trong số những tác phẩm tiêu biểu.

1.

Gió lạnh đầu mùa in trong tập truyện cùng tên của Thạch Lam, được xuất bản năm 1937. Câu chuyện xoay quanh chiếc áo ấm của những đứa trẻ nơi phố huyện nghèo vào những ngày đầu đông “gió bấc” thổi lạnh. Len lỏi sâu vào từng dòng chữ là nỗi niềm buồn vui của nhà văn dành cho những đứa trẻ thơ với thế giới tâm hồn vừa hồn nhiên, trong trẻo vừa ấm áp, yêu thương.

Truyện được mở đầu bằng không khí của một buổi sáng, khi “mùa đông đột nhiên đến, không báo trước”. Chỉ sau một đêm mưa rào “trời bỗng đổi ra gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt”. Sơn từ trong chăn bọc bước xuống lại ngồi bên hỏa lò cùng mẹ và chị đang ngồi pha nước chè uống. “Người vú già xù xì cái áo bông cánh rách, xách siêu nước từ dưới nhà lên”. Chị Lan từ trong buồng “khệ nệ ôm cái thúng quần áo, có áo vệ sinh màu nâu sẫm, áo dạ khâu chỉ đỏ và cả chiếc áo bông cánh đã cũ nhưng còn lành lặn…”. Chỉ bằng vài chi tiết miêu tả, nhà văn Thạch Lam đã tạo ra được một sự đối lập giữa cái gió lạnh bên ngoài và không khí đầm ấm bên trong một gia đình. Hơi ấm ấy như sợi tơ man mác khắp cả thiên truyện.

Sau khi đã mặc xong áo ấm, quay đi quay lại ba, bốn lần để mẹ ngắm, Sơn “xúng xính rủ chị ra chợ chơi”. Trước sự xuất hiện của chị em Sơn, những đứa trẻ con nhà nghèo khổ ở cuối chợ “đều lộ vẻ vui mừng nhưng vẫn đứng xa, không dám vồ vập”. Có lẽ “chúng như biết cái phận nghèo hèn của chúng vậy”. Nhưng rồi, mọi cặp mắt đều đang hướng vào bộ quần áo trên người Sơn. “Thằng Cúc, con Xuân, con Tý, con Túc sán gần, giương đôi mắt ngắm bộ quần áo mới của Sơn”. Thằng Xuân đến mó vào chiếc áo, “nó chưa thấy cái áo như thế bao giờ”. Một đứa khác “tặc lưỡi”: “- Cái áo này mặc thì nóng lắm. Chắc phải mua đến một đồng bạc chứ không ít, chúng mày nhỉ?”. Đứa khác chêm vào, giọng tiếc tẩm: “- Ngày trước, thầy tao cũng có một cái áo như thế, về sau bán cho ông lý mất”. Con Túc ngây ngô giương đôi mắt lên hỏi Sơn: “- Cái này cậu mua tận Hà Nội phải không?”...

Trong cái nhìn của bọn trẻ nghèo xóm chợ, bộ quần áo Sơn mặc là cả thế giới xa vời. Nó đối lập với “những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ”. Chúng tưởng tượng Sơn mặc chiếc áo đó chắc là “nóng lắm”, trong lúc “môi chúng nó tím lại, và qua những chỗ áo rách, da thịt thâm đi. Mỗi cơn gió đến, chúng lại run lên, hàm răng đập vào nhau”. Thế nhưng chị em Sơn “vẫn rất thân mật chơi đùa” cùng đám trẻ. “Sơn lật vạt áo thâm, chìa áo vệ sinh và áo dạ cho cả bọn xem”. Cũng có lúc nó còn “ưỡn ngực” tự hào: “- Ở Hà Nội, chứ ở đây làm gì có. Mẹ tôi còn hẹn mua cho tôi một cái áo len nhiều tiền hơn nữa kia…”. Chính sự hồn nhiên, vô tư và rất thân thiện này đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn của những đứa trẻ trong trang văn Thạch Lam.

Với giọng kể chậm rãi, man mác buồn, lắng trong cuộc chuyện trò của những đứa trẻ hồn nhiên như có cả nỗi niềm cảm thương sâu sắc của nhà văn Thạch Lam với những kiếp người nghèo khổ.

Rời mắt khỏi chiếc áo của Sơn, câu chuyện của đám trẻ trong những ngày gió lạnh hướng về con bé “co ro đứng bên cột quán, chỉ mặc có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay”. Đó là Hiên, đứa con gái bên hàng xóm của chị em Lan. Lan đến bên con bé hỏi: “- Sao áo của mày rách thế Hiên? Áo lành đâu không mặc?”. Con bé “bịu xịu”: “- Hết áo rồi, chỉ còn cái này”. Phản ứng tự nhiên trước câu trả lời của Hiên, Sơn thắc mắc: “- Sao không bảo u mày mua cho?”. Nhưng ngay lập tức, Sơn “chợt nhớ ra là mẹ cái Hiên rất nghèo, chỉ có nghề mò cua bắt ốc thì còn lấy đâu ra tiền mà sắm áo cho con nữa”. Cũng thật tự nhiên, cảm xúc trong Sơn dâng trào: “Sơn thấy động lòng thương, cũng như ban sáng Sơn đã nhớ thương đến em Duyên ngày trước”… Chỉ bằng một dòng tâm trạng, nhưng Thạch Lam đã làm hiện lên thế giới tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc, giàu tình yêu thương trong tâm hồn một đứa trẻ.

Từ cảm xúc ban đầu ấy, “một ý nghĩ tốt bỗng thoáng qua trong trí”, Sơn bàn với chị Lan: “Hay là chúng ta đem cho nó cái áo bông cũ”. Hai chị em đang nói đến cái áo hồi sáng Sơn nhìn thấy mẹ cầm giơ lên trong thúng quần áo chị Lan bê ra. Đó là cái áo bông của Duyên - đứa em gái bé của Sơn, chết từ năm lên bốn tuổi. Với lòng ngây thơ của tuổi trẻ, Lan “hăm hở” chạy về nhà lấy áo…

Bìa sách. Ảnh minh họa (nguồn IT)

Chiếc áo bông cánh cũ chính là hiện thân của tình yêu thương - thứ tình cảm được nảy sinh một cách tự nhiên của hai đứa trẻ con nhà khá giả, có áo mặc ấm với những đứa trẻ nghèo khó, đáng thương. Trong cái gió lạnh đầu mùa, chiếc áo bông là cầu nối truyền hơi ấm đến những trái tim co ro vì thiếu áo, làm thức dậy niềm ấm áp trong tâm hồn trẻ thơ. Cảm xúc “Sơn đứng lặng yên đợi, trong lòng tự nhiên thấy ấm áp, vui vui” như đang lan đến người đọc. Mỗi câu chữ giản dị nhưng đánh thức được những cảm xúc thật sâu xa. Tài nghệ của Thạch Lam nằm trong chính những con chữ giản đơn ấy!

Sau khi cho Hiên áo, về đến nhà, nghe vú già hỏi: “- Có phải cậu đem cho con Hiên cái áo bông cũ phải không?”, Sơn “lo quá”. Nghe lời vú, chị em Sơn vội vàng ra chợ tìm cái Hiên, nhưng không thấy con bé ở đó. Đến nhà cũng không thấy ai, mẹ nó cũng không có nhà. Hai chị em lo sợ đi ra cánh đồng tìm cũng không gặp. Mang tâm trạng sợ mẹ mắng, hai chị em “gần đến buổi chiều” mới “dắt nhau lẻn về nhà”. Đến cửa, chị em Sơn “ngạc nhiên đứng sựng ra” khi thấy mẹ con Hiên đang ngồi ở cái ghế con trên đất, trước mặt mẹ, tay cầm cái áo bông cũ. Thì ra, mẹ Hiên đến trả áo. Mẹ Sơn sau khi biết hoàn cảnh “khổ lắm” của mẹ Hiên đã với cái âu đồng lấy tiền đưa năm hào cho mẹ Hiên vay về may áo cho con.

Trước mặt mẹ con Hiên, lúc thấy hai con về ở cửa, mẹ Sơn “nghiêm nghị” bảo: “- Kìa, hai cô cậu đã về kia. Thế áo bông của tôi đâu mà tự tiện đem cho đấy?”. Hai đứa trẻ đã biết sai, “sợ hãi, cúi đầu lặng im”. Nhưng khi mẹ con Hiên “bước ra khỏi cửa” mẹ Sơn vẫy hai con lại gần “rồi âu yếm ôm vào lòng” thủ thỉ: “- Hai con tôi quí quá, dám tự do lấy áo đem cho người ta không sợ mẹ mắng ư?”.Trong vẻ “âu yếm” toát lên sự bao dung và cả niềm tự hào của người mẹ với những đứa con.

Cảm thông sâu sắc với những phận đời nghèo khổ, Thạch Lam đã xây dựng trong thiên truyện “Gió lạnh đầu mùa” một thế giới đầm ấm, tràn đầy yêu thương. Ở đó, con người xích lại gần nhau, truyền cho nhau hơi ấm, xua đi cái lạnh đầu đông. Ở đó, những tâm hồn trẻ thơ hiện lên thật đẹp đẽ!

2.

Vẻ đẹp tâm hồn trẻ thơ trong văn Thạch Lam còn được hiện lên một cách sinh động trong truyện “Hai đứa trẻ”. Đây là truyện ngắn có cốt truyện đơn giản, rất ít sự kiện. Cả thiên truyện chỉ xoay quanh một vài mẩu đối thoại của số ít nhân vật trong không gian hẹp của phố huyện nghèo, từ chiều đến đêm. Chiều sâu của truyện là ở những xúc cảm, những tâm tư, những cung bậc cảm xúc của nhân vật Liên - một đứa trẻ mới lớn - trước cuộc sống con người. Bằng việc đi sâu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những xúc cảm mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày, Thạch Lam đã dệt nên những trang văn nhẹ nhàng, thổn thức, thấm đẫm chất thơ. Ở đó, tâm hồn trẻ thơ hiện lên với chiều sâu tâm hồn nhiều trắc ẩn.

Những đứa trẻ xuất hiện trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ở những bộ dạng khác nhau, nhưng đều chung một gương mặt nghèo đói. Đó là “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để lại. Đó là “thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra” - con của chị Tí, cùng mẹ dọn hàng vào mỗi buổi chiều tàn. Đó còn là thằng bé của gia đình bác xẩm “bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”… Toàn bộ thời khắc ngày tàn, phiên chợ tàn và những kiếp người tàn ở phố huyện đều được khúc xạ qua cái nhìn của Liên - một đứa trẻ mới lớn, từng sống ở Hà Nội, từ ngày thầy mất việc cả nhà dọn về sống ở phố huyện này. Những cảm nhận của Liên hé mở thế giới tâm hồn sâu lắng nhiều cảm xúc, vang dội những thanh âm của cuộc sống và gieo mầm những ước mơ đẹp đẽ của con người.

Như một quy luật tất yếu của cuộc sống, khi con người bị vây bủa trong bóng tối, họ sẽ luôn tìm cách hướng về ánh sáng. Vẻ đẹp của những tâm hồn trẻ thơ trong “Hai đứa trẻ” được tập trung trong cảnh đợi tàu của chị em Liên.

Hằng đêm, sẽ có chuyến tàu đi qua phố huyện, nhưng cũng như mọi đêm, Liên không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng. Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu, đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Cùng niềm mong ngóng đó, bác Siêu nghển cổ ra phía ga phát hiện tín hiệu đoàn tàu sắp đến: - Đèn ghi đã ra kia rồi. Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa từ đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Hai chị em còn nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. Không lâu sau tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

Dù chỉ trong chốc lát, nhưng đoàn tàu qua phố huyện đã mang theo tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, rồi tiếng còi đã rít lên, tiếng rầm rộ khi tàu đi tới… khuấy động cái tĩnh lặng của đêm. Đoàn tàu cũng mang theo nguồn ánh sáng khác lạ, khác xa với thứ ánh sáng leo lét, yếu ớt ở phố huyện thường ngày. Cái sáng trưng của các toa đèn, vẻ lấp lánh của đồng và kền và các cửa kính đủ sức mạnh xé tan màn đêm dày kín, phát sáng cả xuống đường, phát sáng cả trong những ánh mắt dõi theo của những con người đang ngắm nhìn đoàn tàu, cả khi nó đang xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

Ánh sáng của đoàn tàu còn rọi sâu vào miền kí ức êm đềm của Liên, Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác qua đi. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đoàn tàu đưa Liên thoát ra khỏi không gian tăm tối, buồn tẻ, nghèo khổ của phố huyện, đoàn tàu đem đến những hiện hữu của thời gian trong tâm tư của những đứa trẻ - đó là niềm vui, sự háo hức trong chốc lát của hiện tại, khi Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, và thức dậy kí ức tuổi thơ êm đẹp trong quá khứ và là mong manh một thoáng ước mơ như mơ hồ chờ đợi một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.

Nhưng đoàn tàu cũng chỉ ngang qua phố huyện trong chốc lát, để rồi, ngay sau đó đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê và ngoài kia đồng ruộng mênh mang và yên lặng. Trở về hiện tại, Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi, lòng yên tĩnh như đêm ở phố huyện, tịch mịch và đầy bóng tối.

Cảnh đợi tàu là đoạn văn đầy ắp những rung cảm, của nhân vật, cũng là đoạn văn đầy ắp chất thơ. Thạch Lam đã dành những tình cảm thương xót cho những kiếp người nghèo khổ, đặt niềm tin vào khát vọng đổi đời của con người. Tất cả những tư tưởng, tình cảm của nhà văn đều được chuyển vào trong từng câu văn giàu cảm xúc. Vẻ đẹp của những tâm hồn trẻ thơ như những nốt nhạc làm rung lên những cung bậc tình cảm của người đọc.

Là thành viên của “Tự Lực văn đoàn”, song trước sau văn phong Thạch Lam vẫn chảy riêng biệt một dòng. Nhà văn luôn hướng ngòi bút của mình về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội. Tác phẩm của Thạch Lam vì thế vừa giàu chất trữ tình nhưng lại nhiều yếu tố hiện thực. “Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam chính là ở lòng nhân ái và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm. Nhân vật Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam” (Lời Nhà xuất bản Văn học). Vẻ đẹp tâm hồn của những đứa trẻ trong trang văn Thạch Lam mãi như là những cơn gió nhẹ thổi qua triền sông, để lại cái mát lành trong tâm hồn người đọc.  Đến với “Gió lạnh đầu mùa”, “Hai đứa trẻ” hay với bất cứ truyện ngắn nào của Thạch Lam, người đọc cũng sẽ thấy yêu, thấy quý trọng và biết nâng niu, chắt gạn từng chút tốt đẹp trong mỗi con người.

Theo Trần Đức Tài - GD&TĐ

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • . Hai năm sau kể từ khi Julia Kristeva đưa ra khái niệm liên văn bản (intertextuality), Roland Barthes đã đi xa hơn nhiều qua một tuyên bố gây sốc: Cái chết của tác giả (The Death of the Author, 1968). Những quan niệm mới mẻ của các nhà khoa học một thời từng là trụ cột của chủ nghĩa cấu trúc đã chính thức khép lại vai trò của isme này và mở ra giai đoạn hậu cấu trúc. Trong quan niệm mang tính gây hấn của họ, người đọc, từ chỗ là kẻ bên lề, đã chính thức bước vào vị thế trung tâm với tư cách là kẻ có quyền năng tối thượng trong việc thiết lập mối quan hệ và ý nghĩa giữa văn bản và liên văn bản, giữa văn bản và các thiết chế văn hóa đã tạo ra nó(1).

  • Tiểu thuyết về giải phóng miền Nam Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.1975 của nhà báo kỳ cựu Trần Mai Hạnh đã vượt qua tiểu thuyết về chiến tranh biên giới phía Bắc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương, tác giả xuất sắc của văn học đương đại.

  • “Tay chơi” Nguyễn Quang Sáng rời xa cõi tạm, “trưởng lão” Tô Hoài về với “Cát bụi chân ai,” nhà văn của đất và người phương Nam - Anh Đức về với đất Mẹ, tác giả của “Biển và chim bói cá” - nhà văn Bùi Ngọc Tấn kết thúc hành trình sống và viết…

  • "Những đỉnh núi du ca" là công trình nghiên cứu mới nhất về tộc người H'mông của nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Mạnh Tiến (ảnh bên), người đã cố công lang thang suốt ba năm trên khắp miền núi phía Bắc mà trọng tâm là cao nguyên đá Đồng Văn để tìm kiếm cho mình một lối tiếp cận khả dĩ nhất để giải mã những phản ứng phức tạp của tộc người vừa đặc biệt, vừa hấp dẫn nhưng cũng không ít bí ẩn.

  • "Có một phố vừa đi qua phố" - tập di cảo của cố tác giả Đinh Vũ Hoàng Nguyên - là một trong bốn tác phẩm văn học đoạt giải "Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2014".

  • Nhà văn quân đội có tiếng Đình Kính (Hải Phòng) viết ở nhiều lĩnh vực: Tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, kịch bản phim. Mảng chủ đề lớn mà ông đeo đuổi là biển và những người lính biển, với các tác phẩm “Sóng cửa sông” (1976), “Đảo mùa gió” (1978), “Lính thủy” (1978), “Người của biển” (1985) - Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng, “Sóng chìm” (2002), “Huyền thoại tàu không số” (2012) - 2 tác phẩm này đều đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn VN. Phóng viên Báo Lao Động đã phỏng vấn ông…

  • Trong tiểu thuyết Xác phàm, nhà văn Nguyễn Đình Tú dùng hình ảnh “mùi buồn” để gợi lại ẩn ức về một cuộc chiến tranh.

  • Bất kỳ người cầm bút nào cũng đều mơ ước rằng tác phẩm của mình sẽ trở thành sách gối đầu giường của hàng triệu người. Sao chúng tôi - những nhà văn, nhà thơ Việt Nam lại không mong muốn một ngày tác phẩm của mình hiện diện trên các ngôn ngữ của dân tộc khác chứ?

  • NGUYỄN NHẬT ÁNH

                   Tạp văn

  • Nhà văn Tô Hoài - tác giả của cuốn sách "Dế mèn phiêu lưu ký"  khiến bao thế hệ bạn đọc Việt Nam say mê - đã từ trần vào trưa 6.7.2014 tại nhà riêng ở Hà Nội, hưởng thọ 95 tuổi. 

  • Nobel Văn học là đỉnh cao nhưng không phải đỉnh cao nào cũng làm hoan hỉ tất cả mọi người. Việc lựa chọn của viện Hàn lâm Thuỵ Điển những năm gần đây chắc chắn sẽ làm chạnh lòng những ai đã trót yêu thích thế giới văn chương của Kafka, Jorge Louis Borges, Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino…

  • Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh

  • Lần nào ra Hà Nội, dù dài ngày hay chỉ là thoáng chốc, nhà văn Trần Thùy Mai cũng tới ngồi uống cà phê ở nhà hàng Thủy Tạ nhìn ngắm hồ Gươm và hẹn bạn bè tới gặp gỡ chuyện trò. Hỏi vì sao chị chỉ chọn mỗi chỗ này, Trần Thùy Mai bảo: “Là vì ở đây là “Hà Nội nhất”, lại có thiên nhiên bao quanh, giống như  bờ sông Hương ở Huế vậy…”.