Những tâm hồn trẻ thơ trong văn Thạch Lam

09:44 02/11/2020

Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).

Vẻ đẹp tâm hồn của những đứa trẻ trong trang văn Thạch Lam mãi như là những cơn gió nhẹ thổi qua triền sông, để lại cái mát lành trong tâm hồn người đọc. Ảnh minh họa (nguồn IT)

Trong thế giới nghệ thuật của mình, nhà văn đặc biệt dành tình cảm ấm áp cho những đứa trẻ với vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo, ngây thơ. Gió lạnh đầu mùa và Hai đứa trẻ là hai trong số những tác phẩm tiêu biểu.

1.

Gió lạnh đầu mùa in trong tập truyện cùng tên của Thạch Lam, được xuất bản năm 1937. Câu chuyện xoay quanh chiếc áo ấm của những đứa trẻ nơi phố huyện nghèo vào những ngày đầu đông “gió bấc” thổi lạnh. Len lỏi sâu vào từng dòng chữ là nỗi niềm buồn vui của nhà văn dành cho những đứa trẻ thơ với thế giới tâm hồn vừa hồn nhiên, trong trẻo vừa ấm áp, yêu thương.

Truyện được mở đầu bằng không khí của một buổi sáng, khi “mùa đông đột nhiên đến, không báo trước”. Chỉ sau một đêm mưa rào “trời bỗng đổi ra gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt”. Sơn từ trong chăn bọc bước xuống lại ngồi bên hỏa lò cùng mẹ và chị đang ngồi pha nước chè uống. “Người vú già xù xì cái áo bông cánh rách, xách siêu nước từ dưới nhà lên”. Chị Lan từ trong buồng “khệ nệ ôm cái thúng quần áo, có áo vệ sinh màu nâu sẫm, áo dạ khâu chỉ đỏ và cả chiếc áo bông cánh đã cũ nhưng còn lành lặn…”. Chỉ bằng vài chi tiết miêu tả, nhà văn Thạch Lam đã tạo ra được một sự đối lập giữa cái gió lạnh bên ngoài và không khí đầm ấm bên trong một gia đình. Hơi ấm ấy như sợi tơ man mác khắp cả thiên truyện.

Sau khi đã mặc xong áo ấm, quay đi quay lại ba, bốn lần để mẹ ngắm, Sơn “xúng xính rủ chị ra chợ chơi”. Trước sự xuất hiện của chị em Sơn, những đứa trẻ con nhà nghèo khổ ở cuối chợ “đều lộ vẻ vui mừng nhưng vẫn đứng xa, không dám vồ vập”. Có lẽ “chúng như biết cái phận nghèo hèn của chúng vậy”. Nhưng rồi, mọi cặp mắt đều đang hướng vào bộ quần áo trên người Sơn. “Thằng Cúc, con Xuân, con Tý, con Túc sán gần, giương đôi mắt ngắm bộ quần áo mới của Sơn”. Thằng Xuân đến mó vào chiếc áo, “nó chưa thấy cái áo như thế bao giờ”. Một đứa khác “tặc lưỡi”: “- Cái áo này mặc thì nóng lắm. Chắc phải mua đến một đồng bạc chứ không ít, chúng mày nhỉ?”. Đứa khác chêm vào, giọng tiếc tẩm: “- Ngày trước, thầy tao cũng có một cái áo như thế, về sau bán cho ông lý mất”. Con Túc ngây ngô giương đôi mắt lên hỏi Sơn: “- Cái này cậu mua tận Hà Nội phải không?”...

Trong cái nhìn của bọn trẻ nghèo xóm chợ, bộ quần áo Sơn mặc là cả thế giới xa vời. Nó đối lập với “những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ”. Chúng tưởng tượng Sơn mặc chiếc áo đó chắc là “nóng lắm”, trong lúc “môi chúng nó tím lại, và qua những chỗ áo rách, da thịt thâm đi. Mỗi cơn gió đến, chúng lại run lên, hàm răng đập vào nhau”. Thế nhưng chị em Sơn “vẫn rất thân mật chơi đùa” cùng đám trẻ. “Sơn lật vạt áo thâm, chìa áo vệ sinh và áo dạ cho cả bọn xem”. Cũng có lúc nó còn “ưỡn ngực” tự hào: “- Ở Hà Nội, chứ ở đây làm gì có. Mẹ tôi còn hẹn mua cho tôi một cái áo len nhiều tiền hơn nữa kia…”. Chính sự hồn nhiên, vô tư và rất thân thiện này đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn của những đứa trẻ trong trang văn Thạch Lam.

Với giọng kể chậm rãi, man mác buồn, lắng trong cuộc chuyện trò của những đứa trẻ hồn nhiên như có cả nỗi niềm cảm thương sâu sắc của nhà văn Thạch Lam với những kiếp người nghèo khổ.

Rời mắt khỏi chiếc áo của Sơn, câu chuyện của đám trẻ trong những ngày gió lạnh hướng về con bé “co ro đứng bên cột quán, chỉ mặc có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay”. Đó là Hiên, đứa con gái bên hàng xóm của chị em Lan. Lan đến bên con bé hỏi: “- Sao áo của mày rách thế Hiên? Áo lành đâu không mặc?”. Con bé “bịu xịu”: “- Hết áo rồi, chỉ còn cái này”. Phản ứng tự nhiên trước câu trả lời của Hiên, Sơn thắc mắc: “- Sao không bảo u mày mua cho?”. Nhưng ngay lập tức, Sơn “chợt nhớ ra là mẹ cái Hiên rất nghèo, chỉ có nghề mò cua bắt ốc thì còn lấy đâu ra tiền mà sắm áo cho con nữa”. Cũng thật tự nhiên, cảm xúc trong Sơn dâng trào: “Sơn thấy động lòng thương, cũng như ban sáng Sơn đã nhớ thương đến em Duyên ngày trước”… Chỉ bằng một dòng tâm trạng, nhưng Thạch Lam đã làm hiện lên thế giới tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc, giàu tình yêu thương trong tâm hồn một đứa trẻ.

Từ cảm xúc ban đầu ấy, “một ý nghĩ tốt bỗng thoáng qua trong trí”, Sơn bàn với chị Lan: “Hay là chúng ta đem cho nó cái áo bông cũ”. Hai chị em đang nói đến cái áo hồi sáng Sơn nhìn thấy mẹ cầm giơ lên trong thúng quần áo chị Lan bê ra. Đó là cái áo bông của Duyên - đứa em gái bé của Sơn, chết từ năm lên bốn tuổi. Với lòng ngây thơ của tuổi trẻ, Lan “hăm hở” chạy về nhà lấy áo…

Bìa sách. Ảnh minh họa (nguồn IT)

Chiếc áo bông cánh cũ chính là hiện thân của tình yêu thương - thứ tình cảm được nảy sinh một cách tự nhiên của hai đứa trẻ con nhà khá giả, có áo mặc ấm với những đứa trẻ nghèo khó, đáng thương. Trong cái gió lạnh đầu mùa, chiếc áo bông là cầu nối truyền hơi ấm đến những trái tim co ro vì thiếu áo, làm thức dậy niềm ấm áp trong tâm hồn trẻ thơ. Cảm xúc “Sơn đứng lặng yên đợi, trong lòng tự nhiên thấy ấm áp, vui vui” như đang lan đến người đọc. Mỗi câu chữ giản dị nhưng đánh thức được những cảm xúc thật sâu xa. Tài nghệ của Thạch Lam nằm trong chính những con chữ giản đơn ấy!

Sau khi cho Hiên áo, về đến nhà, nghe vú già hỏi: “- Có phải cậu đem cho con Hiên cái áo bông cũ phải không?”, Sơn “lo quá”. Nghe lời vú, chị em Sơn vội vàng ra chợ tìm cái Hiên, nhưng không thấy con bé ở đó. Đến nhà cũng không thấy ai, mẹ nó cũng không có nhà. Hai chị em lo sợ đi ra cánh đồng tìm cũng không gặp. Mang tâm trạng sợ mẹ mắng, hai chị em “gần đến buổi chiều” mới “dắt nhau lẻn về nhà”. Đến cửa, chị em Sơn “ngạc nhiên đứng sựng ra” khi thấy mẹ con Hiên đang ngồi ở cái ghế con trên đất, trước mặt mẹ, tay cầm cái áo bông cũ. Thì ra, mẹ Hiên đến trả áo. Mẹ Sơn sau khi biết hoàn cảnh “khổ lắm” của mẹ Hiên đã với cái âu đồng lấy tiền đưa năm hào cho mẹ Hiên vay về may áo cho con.

Trước mặt mẹ con Hiên, lúc thấy hai con về ở cửa, mẹ Sơn “nghiêm nghị” bảo: “- Kìa, hai cô cậu đã về kia. Thế áo bông của tôi đâu mà tự tiện đem cho đấy?”. Hai đứa trẻ đã biết sai, “sợ hãi, cúi đầu lặng im”. Nhưng khi mẹ con Hiên “bước ra khỏi cửa” mẹ Sơn vẫy hai con lại gần “rồi âu yếm ôm vào lòng” thủ thỉ: “- Hai con tôi quí quá, dám tự do lấy áo đem cho người ta không sợ mẹ mắng ư?”.Trong vẻ “âu yếm” toát lên sự bao dung và cả niềm tự hào của người mẹ với những đứa con.

Cảm thông sâu sắc với những phận đời nghèo khổ, Thạch Lam đã xây dựng trong thiên truyện “Gió lạnh đầu mùa” một thế giới đầm ấm, tràn đầy yêu thương. Ở đó, con người xích lại gần nhau, truyền cho nhau hơi ấm, xua đi cái lạnh đầu đông. Ở đó, những tâm hồn trẻ thơ hiện lên thật đẹp đẽ!

2.

Vẻ đẹp tâm hồn trẻ thơ trong văn Thạch Lam còn được hiện lên một cách sinh động trong truyện “Hai đứa trẻ”. Đây là truyện ngắn có cốt truyện đơn giản, rất ít sự kiện. Cả thiên truyện chỉ xoay quanh một vài mẩu đối thoại của số ít nhân vật trong không gian hẹp của phố huyện nghèo, từ chiều đến đêm. Chiều sâu của truyện là ở những xúc cảm, những tâm tư, những cung bậc cảm xúc của nhân vật Liên - một đứa trẻ mới lớn - trước cuộc sống con người. Bằng việc đi sâu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những xúc cảm mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày, Thạch Lam đã dệt nên những trang văn nhẹ nhàng, thổn thức, thấm đẫm chất thơ. Ở đó, tâm hồn trẻ thơ hiện lên với chiều sâu tâm hồn nhiều trắc ẩn.

Những đứa trẻ xuất hiện trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ở những bộ dạng khác nhau, nhưng đều chung một gương mặt nghèo đói. Đó là “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để lại. Đó là “thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra” - con của chị Tí, cùng mẹ dọn hàng vào mỗi buổi chiều tàn. Đó còn là thằng bé của gia đình bác xẩm “bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”… Toàn bộ thời khắc ngày tàn, phiên chợ tàn và những kiếp người tàn ở phố huyện đều được khúc xạ qua cái nhìn của Liên - một đứa trẻ mới lớn, từng sống ở Hà Nội, từ ngày thầy mất việc cả nhà dọn về sống ở phố huyện này. Những cảm nhận của Liên hé mở thế giới tâm hồn sâu lắng nhiều cảm xúc, vang dội những thanh âm của cuộc sống và gieo mầm những ước mơ đẹp đẽ của con người.

Như một quy luật tất yếu của cuộc sống, khi con người bị vây bủa trong bóng tối, họ sẽ luôn tìm cách hướng về ánh sáng. Vẻ đẹp của những tâm hồn trẻ thơ trong “Hai đứa trẻ” được tập trung trong cảnh đợi tàu của chị em Liên.

Hằng đêm, sẽ có chuyến tàu đi qua phố huyện, nhưng cũng như mọi đêm, Liên không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại, đêm họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng. Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu, đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Cùng niềm mong ngóng đó, bác Siêu nghển cổ ra phía ga phát hiện tín hiệu đoàn tàu sắp đến: - Đèn ghi đã ra kia rồi. Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa từ đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Hai chị em còn nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ. Không lâu sau tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

Dù chỉ trong chốc lát, nhưng đoàn tàu qua phố huyện đã mang theo tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, rồi tiếng còi đã rít lên, tiếng rầm rộ khi tàu đi tới… khuấy động cái tĩnh lặng của đêm. Đoàn tàu cũng mang theo nguồn ánh sáng khác lạ, khác xa với thứ ánh sáng leo lét, yếu ớt ở phố huyện thường ngày. Cái sáng trưng của các toa đèn, vẻ lấp lánh của đồng và kền và các cửa kính đủ sức mạnh xé tan màn đêm dày kín, phát sáng cả xuống đường, phát sáng cả trong những ánh mắt dõi theo của những con người đang ngắm nhìn đoàn tàu, cả khi nó đang xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

Ánh sáng của đoàn tàu còn rọi sâu vào miền kí ức êm đềm của Liên, Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác qua đi. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đoàn tàu đưa Liên thoát ra khỏi không gian tăm tối, buồn tẻ, nghèo khổ của phố huyện, đoàn tàu đem đến những hiện hữu của thời gian trong tâm tư của những đứa trẻ - đó là niềm vui, sự háo hức trong chốc lát của hiện tại, khi Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, và thức dậy kí ức tuổi thơ êm đẹp trong quá khứ và là mong manh một thoáng ước mơ như mơ hồ chờ đợi một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.

Nhưng đoàn tàu cũng chỉ ngang qua phố huyện trong chốc lát, để rồi, ngay sau đó đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê và ngoài kia đồng ruộng mênh mang và yên lặng. Trở về hiện tại, Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi, lòng yên tĩnh như đêm ở phố huyện, tịch mịch và đầy bóng tối.

Cảnh đợi tàu là đoạn văn đầy ắp những rung cảm, của nhân vật, cũng là đoạn văn đầy ắp chất thơ. Thạch Lam đã dành những tình cảm thương xót cho những kiếp người nghèo khổ, đặt niềm tin vào khát vọng đổi đời của con người. Tất cả những tư tưởng, tình cảm của nhà văn đều được chuyển vào trong từng câu văn giàu cảm xúc. Vẻ đẹp của những tâm hồn trẻ thơ như những nốt nhạc làm rung lên những cung bậc tình cảm của người đọc.

Là thành viên của “Tự Lực văn đoàn”, song trước sau văn phong Thạch Lam vẫn chảy riêng biệt một dòng. Nhà văn luôn hướng ngòi bút của mình về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội. Tác phẩm của Thạch Lam vì thế vừa giàu chất trữ tình nhưng lại nhiều yếu tố hiện thực. “Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam chính là ở lòng nhân ái và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm. Nhân vật Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam” (Lời Nhà xuất bản Văn học). Vẻ đẹp tâm hồn của những đứa trẻ trong trang văn Thạch Lam mãi như là những cơn gió nhẹ thổi qua triền sông, để lại cái mát lành trong tâm hồn người đọc.  Đến với “Gió lạnh đầu mùa”, “Hai đứa trẻ” hay với bất cứ truyện ngắn nào của Thạch Lam, người đọc cũng sẽ thấy yêu, thấy quý trọng và biết nâng niu, chắt gạn từng chút tốt đẹp trong mỗi con người.

Theo Trần Đức Tài - GD&TĐ

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên  toàn quốc.

  • Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…

  • 1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.

  • Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.

  • Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.

  • Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.

  • Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).

  • Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.

  • Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.

  • Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.

  • Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.

  • Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".

  • Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.

  • hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?

  • Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.

  • Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.

  • Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.

  • Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.

  • Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn  Nguyễn Đình Thi -  người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).        

  • Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.