VÕ NGỌC LAN
Như một mặc định của thời gian khi Huế là kinh đô của cả nước và nơi đây cũng là kinh đô của những chiếc áo dài. Vì vậy con gái Huế được làm quen với tà áo dài rất sớm. Bởi khi mới sinh ra đã thấy mẹ, thấy bà, thấy những người phụ nữ chung quanh khoác trên mình chiếc áo dài.
Tôi lên ba tuổi mới lẩm chẩm biết đi đã được mẹ may cho bộ áo dài lụa. Cứ thế mỗi năm tôi đều có bộ áo dài mới. Đến khi vào trung học, bộ áo dài trắng của cô Nữ sinh Đồng Khánh luôn làm tôi hãnh diện. Ngày nay áo dài được cách tân mang lại cho người phụ nữ dáng dấp trẻ trung, khoe được vẻ đẹp của cơ thể, tuy nhiên mặc chiếc áo đó người phụ nữ khó có thể xoay xở, khó thao tác như mặc chiếc áo dài ngày xưa.
![]() |
Tôi rất ghiền áo dài. Có lẽ khi khoác lên người chiếc áo dài ấy, tôi đã khác tôi trước đó. Tôi ngắm tôi trong tà áo của những người chung quanh và thầm nghĩ chiếc áo dài đang làm tôi đẹp lên. Không những tôi thích mặc áo dài mà với 5 người con gái của tôi hiện sống ở nước ngoài, tôi vẫn khuyến khích các con mặc áo dài những khi có lễ hoặc vào dịp Tết Nguyên đán. Những người tôi quen biết như bà Khánh Nam, nhà văn Trần Thùy Mai, giáo sư Thái Kim Lan… hình như cũng đồng hoàn cảnh ghiền áo dài nên thấy họ là thấy tà áo của họ phất phơ trong gió.
![]() |
Bà Khánh Nam |
Người mặc áo dài tạo cho tôi nhiều ấn tượng đó là bà Khánh Nam ở Lạc Tịnh viên. Năm 1996 tôi đi cùng đoàn khách du lịch đa phần là người Âu Mỹ đến tham quan ngôi nhà cổ này. Khi bà Khánh Nam trong chiếc áo dài thướt tha xuất hiện thật trang nhã khiến cả đoàn khách tây ta gì đều trầm trồ. Tôi đã xấu hổ khi mình là người Viêt lại không mặc áo dài mà diện bộ jeans. Sau đó có vài người bạn của tôi ra chợ Đông Ba tìm cho được lụa màu vàng chanh y đúc áo của bà quận chúa này để mua. Tôi cũng không ngoại lệ. Rõ thấy hiệu ứng của người đẹp với chiếc áo dài đẹp quả có sức quyến rũ lạ kỳ.
Tôi còn trở lại Lạc Tịnh viên khá nhiều lần. Tôi khám phá được một điều thú vị là người phụ nữ hoàng tộc này luôn thường trực chiếc áo dài trên người, gặp bà là thấy chiếc áo dài. Hình như nếu chưa mặc kịp bà sẽ không tiếp khách. Tác phong đó làm tôi nhớ đến cô Xuân Yến từng làm Hiệu trưởng Đồng Khánh. Cô Yến có thói quen khi xuất hiện trước người khác là phải mặc áo dài, trang điểm chu đáo. Phong cách ăn mặc của bà Khánh Nam thật đẹp, thật tao nhã. Tôi dùng từ tao nhã để chỉ chiếc áo dài bà Khánh Nam đang khoác trên người. Vì bản thân tôi đã đôi lần nghe người ta bảo chiếc áo dài Việt Nam khá sexy. Hai điều đối lập này xuất hiện trong cùng chủ thể áo dài cũng không mâu thuẫn lắm đâu. Lý do đơn giản rằng có sexy hay tao nhã đều do chủ nhân chiếc áo tự tạo phong cách. Như bà Khánh Nam mặc áo dài màu lam, màu hoàng yến, cắt may kín đáo thì làm sao chiếc áo đó có thể tạo cho người đối diện sự tò mò. Có chăng trong đầu óc họ chỉ có sự ngưỡng mộ, tôn trọng. Có lẽ khi may áo dài, người đặt may cùng người cắt may cũng không nên quá đà để biến dạng chiếc áo vốn mang đặc trưng là nét tinh hoa của dân tộc.
![]() |
Giáo sư Thái Kim Lan |
Nếu bà Khánh Nam nền nã, quý phái thì giáo sư Thái Kim Lan lại phá cách tìm về dáng xưa. Chiếc áo dài chị mặc với phong cách cổ điển trong cách viền hoặc xẻ tà với gam màu tím trông chị thật trẻ trung. Chiếc áo thì xưa như quả đất mà Kim Lan thì tinh khôi hình ảnh của cô gái Huế. Hình như nữ tiến sĩ triết học này chuộng hai màu trắng và tím, đặc biệt khi mặc áo dài chị lại đội thêm chiếc nón lá. Khó ai biết chị đã đi qua một vòng tuần hoàn trời đất, có lẽ chiếc áo dài đã giữ cho chị mãi thanh xuân. Năm 2000 gặp chị ở buổi gặp mặt cựu Nữ sinh Đồng Khánh, trong chiếc áo dài màu trắng chị đã múa. Có lẽ là lúc tôi thấy Thái Kim Lan đẹp nhất.
Quen biết với nhà văn Trần Thùy Mai đã lâu, thỉnh thoảng mới thấy Thùy Mai mặc áo dài. Mỗi lần như thế tôi lại thầm quan sát. Điều làm tôi thích nhất ở nữ nhà văn này là cách chọn màu áo và họa tiết trên chiếc áo. Hầu như Thùy Mai hay mặc áo lụa Hà Đông. Đúng là khi nhìn chợt thấy mát lạ. Nét đặc biệt trong chiếc áo của Thùy Mai là màu áo đậm như màu mận chín hay màu gỗ gõ, có họa tiết khi là chiếc trống đồng, khi là những lát cắt rất tinh tế và lạ mắt. Áo dài của Thùy Mai mang đầy đủ phong cách tân thời như ôm sát người, tay raglan và dài chấm gót. Nhờ vậy khi nữ văn sỹ bước đi, trông uyển chuyển, mềm mại ghê lắm! Có lẽ do đặc trưng công việc nên Trần Thùy Mai ít mặc áo dài nhưng khi mặc thì lắm kẻ ngoái nhìn.
![]() |
Nhà văn Trần Thùy Mai |
Nhà văn nữ nổi tiếng này tâm sự với tôi: “Người ta hay ca tụng chiếc áo dài trên bục giảng, trên đường phố, trong các dịp lễ hội. Nhưng chưa ai nói đến chiếc áo dài khi ra quốc tế”. Có lẽ do chiếc áo dài buộc người phụ nữ phải ý tứ, khép nép khi khoác nó trên người nên khi ra thế giới phần nào bị hạn chế. Hãy để tự thân chiếc áo dài có đời sống riêng phù hợp như sống giữa xứ sở của chiếc áo đầm Âu Mỹ thì người phụ nữ Việt Nam vẫn chọn chiếc áo dài khi ra đường hay gặp nhau. Không phải họ hoài cổ mà chiếc áo dài trở nên một phần đời không thể thiếu và trên hết họ chọn áo dài để phô diễn những gì thuộc về cái đẹp. Cũng như ngày nay, thế hệ trẻ vẫn đang quay về với chiếc áo dài đó thôi. Không hiểu tôi có thần tượng chiếc áo dài Huế quá không khi khẳng định rằng chiếc áo đã tôn vinh nhiều nét đẹp của những người bạn Huế của tôi. Họ luôn đẹp hơn khi mặc áo dài và từ họ, chiếc áo dài được lắm người ngưỡng mộ.
Tình cờ tôi đọc bài viết của nhà văn Trần Mạnh Hảo về chiếc áo dài trong đó có câu “Khi chảy qua Hà Nội, sông Hồng mặc áo dài đi tết biển Đông” nghe mà thấy lịm cả người. Tôi đã từng thấy Tôn Nữ Giáng Tiên mặc áo dài. Có lẽ chiếc áo dài từ người vợ hoàng phái đã giúp anh có những câu thơ hay thế chăng?. Dẫu gì thì bây giờ người ta mặc áo dài đã bắt đầu nhiều hơn. Cứ mỗi dịp hội hè là thấy áo dài trong gió tung bay. Như 95 năm Đồng Khánh vào tháng 3 năm 2012 nhiều lắm những tà áo tím. Và tôi thấy đâu đó màu áo của bà Khánh Nam, Thái Kim Lan, Trần Thùy Mai những cựu nữ sinh Đồng Khánh ngày xưa. Tôi mơ ước được cùng họ mặc áo dài đi tết quê hương.
V.N.L
(SDB8/3-13)
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.