Bước ra từ chiến trường với 10 năm làm lính đặc công đã góp phần tạo nên tên tuổi của nhà văn viết về chiến tranh Việt Nam - Chu Lai. Hàng chục tác phẩm ra đời đã được đông đảo độc giả đón nhận nhưng chưa khi nào ông ngừng suy ngẫm và trăn trở. “Khi nào tôi còn neo vào hơi thở cần lao, còn hết lòng yêu thương con người, tôi còn tạo cho nhịp điệu trái tim mình”.
Giao lưu với nhà văn Chu Lai - Một đời lính, một nghiệp văn
Hành trình chiêm nghiệm
“Văn học đích thực như chiếc công nông cót két chạy trên đường làng, chạy đến đâu âm thanh phát ra đến đó”, nhà văn Chu Lai từng nhận định. Âm thanh phát ra trên làng quê Việt ấy là những thăng trầm của đất nước trong năm tháng đạn bom, là những khó nhọc tạo dựng cuộc sống khi đất nước hòa bình. Chu Lai lựa chọn cho mình thứ thanh âm đặc biệt, là về những người lính. Từ tiểu thuyết đầu tiên Nắng đồng bằng (1978) đến tác phẩm gần đây nhất Mưa đỏ (2016), qua hơn 4 thập kỷ cầm bút viết về đề tài chiến tranh cách mạng, ông đã đi một hành trình dài với nhiều chiêm nghiệm.
Trong buổi “Giao lưu với nhà văn Chu Lai - Một đời lính, một nghiệp văn” được Đinh Tị Books tổ chức mới đây nhân dịp ra mắt bộ tiểu thuyết gồm 4 cuốn Nắng đồng bằng, Ăn mày dĩ vãng, Phố, Mưa đỏ, nhà văn đã có dịp trải lòng về hành trình viết của mình. Với ông, những trang giấy và cây bút chính là cái neo tâm hồn, tính cách ông vào cuộc đời. Bước ra từ chiến trường với 10 năm làm lính đặc công, cho đến giờ Chu Lai vẫn bị ám ảnh bởi cuộc chiến, như cách ông thể hiện trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng năm 1991: Dĩ vãng chiến tranh quá đau thương, hào sảng và thiêng liêng, đến nỗi nhiều người cứ sống trong đó mà không thoát ra được.
“Vì cuộc sống nghiệt ngã đến nỗi ta viết xong rồi ta quên đi. Ấy thế, có những điều có muốn quên cũng không được”. Nhà văn Chu Lai bảo, từ trước đến giờ, ông viết gì thì viết, bao giờ cũng là chiến tranh. Chiến tranh ấy nhân danh người lính, ông đẩy nó đến tận cùng của sự trần trụi nhưng bên cạnh nó là sự lãng mạn. “Nếu chiến tranh chỉ là trần trụi đơn thuần thì trầm cảm mất, còn chỉ là sự lãng mạn đơn thuần thì đâu phải là ngày hội mà reo ca… Không thể viết chiến tranh theo kiểu bôi đen hay tô hồng, chiến tranh đòi hỏi viết nó như chính nó”.
Nhà văn Chu Lai nhớ lại, một thời những người lính thế hệ ông thường vang lên câu tùy bút đầy kích động: “Người lính nằm trên võng, mong chóng sáng để ngày mai vào trận”. Hình ảnh đầy tính gợi, nghe hừng hực ý chí, nghe như ào ào Trường Sơn ấy, bây giờ nhiều người nghe lại cho rằng thật hài hước. Hài hước ở chỗ, người lính không phải robot chiến binh để mong ngày mai mau sáng để vào cuộc chiến. Đáng lẽ ra, câu nói về đề tài chiến tranh ấy có thể hay hơn: “Người lính nằm trên võng và mong trời đừng bao giờ sáng, để không bao giờ phải vào trận”. Theo nhà văn Chu Lai, so sánh ấy nói lên bản chất nhân văn của con người trong cuộc chiến. Không mong vào trận, nhưng nếu cần, mặt trời lên, người lính sẽ chiến đấu như một con người đầy tự trọng.
Trầm tích dội về
Trong sự nghiệp cầm bút, Chu Lai luôn đau đáu: Văn là mình. Viết về con người chân xác bao giờ cũng tiệm cận trái tim người đọc, mà hơn cả là để bù đắp tinh thần cho chính mình. Viết về con người thì có nhiều điều khó nói, khó nói hết... nhưng bằng cách này hay cách khác, nhà văn đưa được nó lên trang giấy, thành chữ nghĩa, đọng lại ấn tượng. Như câu chuyện người lính trong một trận pháo kích. Pháo bắn thẳng theo hướng trái vào căn cứ, anh đứng ở cửa hầm, giơ hai tay lên trong khi đúng ra phải thụt đầu xuống. Chỉ huy quát, người lính bảo: Anh cứ để em giơ tay lên, đêm qua, em nằm mơ thấy mẹ, mẹ gọi em về, mẹ sắp đi rồi. Thì ra, người lính mong pháo Mỹ tiện đứt hai bàn tay mình, để nếu may mắn còn được cáng ra hậu phương, được về gặp mẹ một lần.
“Hóa ra những người lính gan dạ nhất cũng có lúc yếu đuối, muốn mượn một trận pháo để tự thương tự sát, để được trở về Hà Nội, về với cha mẹ mình. Nhưng sau đó, hơi ấm của đồng đội, hơi ấm của vùng đất, của những bà con trong ấp chiến lược... đã cho họ một khí phách. Khí phách này không phải do hiệu triệu, mà do ngọn gió lịch sử từ ngàn năm lịch sử thổi thốc tháo sau lưng, tạo nên lòng tự trọng buộc người ta tiếp tục chiến đấu”, Chu Lai nói.
“Những chi tiết tưởng chừng nhỏ nhoi ấy lại là chi tiết rất đắt mà Chu Lai phải trả bằng cuộc đời chinh chiến của mình”. Nhận định như vậy, nhà văn Võ Thị Xuân Hà chỉ ra, văn học Việt Nam có nhiều cuốn viết về chiến tranh hay, của Bảo Ninh, Chu Lai, Trung Trung Đỉnh, Bùi Việt Sỹ... nhưng người đọc vẫn không thấy nhàm chán. Nhàm chán làm sao được khi người ta còn quá nhiều điều để khai thác về nó. Như Chu Lai cũng khẳng định: “Về chiến tranh, tôi nghĩ rằng đến bây giờ có viết kiểu gì cũng không hết được. Nó là đề tài càng đào sâu càng màu mỡ, càng khai thác càng phì nhiêu, và càng lùi ra xa thì trầm tích của chiến tranh càng dội về mãnh liệt”.
Chu Lai viết tiểu thuyết, kịch và phim đều về chiến tranh và cho rằng, những câu chuyện thời chiến, dù thời gian có lùi xa bao lâu chăng nữa thì vẫn luôn là một dẫn dụ không ngừng. Ông cũng thừa nhận, nếu không trải qua cuộc đời trận mạc, ông khó có thể viết về chiến tranh chân thực như vật, nhưng tin rằng, đề tài chiến tranh không phải đặc quyền của các nhà văn đàn anh, mà những ngòi bút trẻ với sự chiêm nghiệm, suy nghĩ, yêu mến mảng đề tài sẽ tạo ra tác phẩm hay. “Chiến tranh nếu đẩy đến tận cùng của mọi sự hỉ, nộ, ái, ố, đẩy đến tận cùng của mọi sự vui buồn và trầm lại một chút thì vẫn hấp dẫn như bất cứ đề tài nào khác. Chiến tranh là một loại dung dịch thả xuống chiến hào khiến cho tất cả màu sắc con người bật lên. Những tác phẩm ấy sẽ cộng hưởng giúp mỗi người hiểu về câu chuyện chiến tranh, về những giá trị thuộc về quá khứ xa xôi nhưng vẫn còn vẹn nguyên giá trị đến ngày hôm nay”.
Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.
Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.
Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.
Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).
Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.
Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.
NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.
“Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.
Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.
Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.
Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).
Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).
Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.
Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.
Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.
Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...
Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.
Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.