Những ngọn lửa không tắt

09:01 08/10/2019

Bước ra từ chiến trường với 10 năm làm lính đặc công đã góp phần tạo nên tên tuổi của nhà văn viết về chiến tranh Việt Nam - Chu Lai. Hàng chục tác phẩm ra đời đã được đông đảo độc giả đón nhận nhưng chưa khi nào ông ngừng suy ngẫm và trăn trở. “Khi nào tôi còn neo vào hơi thở cần lao, còn hết lòng yêu thương con người, tôi còn tạo cho nhịp điệu trái tim mình”.

Giao lưu với nhà văn Chu Lai - Một đời lính, một nghiệp văn

Hành trình chiêm nghiệm

“Văn học đích thực như chiếc công nông cót két chạy trên đường làng, chạy đến đâu âm thanh phát ra đến đó”, nhà văn Chu Lai từng nhận định. Âm thanh phát ra trên làng quê Việt ấy là những thăng trầm của đất nước trong năm tháng đạn bom, là những khó nhọc tạo dựng cuộc sống khi đất nước hòa bình. Chu Lai lựa chọn cho mình thứ thanh âm đặc biệt, là về những người lính. Từ tiểu thuyết đầu tiên Nắng đồng bằng (1978) đến tác phẩm gần đây nhất Mưa đỏ (2016), qua hơn 4 thập kỷ cầm bút viết về đề tài chiến tranh cách mạng, ông đã đi một hành trình dài với nhiều chiêm nghiệm.

Trong buổi “Giao lưu với nhà văn Chu Lai - Một đời lính, một nghiệp văn” được Đinh Tị Books tổ chức mới đây nhân dịp ra mắt bộ tiểu thuyết gồm 4 cuốn Nắng đồng bằng, Ăn mày dĩ vãng, Phố, Mưa đỏ, nhà văn đã có dịp trải lòng về hành trình viết của mình. Với ông, những trang giấy và cây bút chính là cái neo tâm hồn, tính cách ông vào cuộc đời. Bước ra từ chiến trường với 10 năm làm lính đặc công, cho đến giờ Chu Lai vẫn bị ám ảnh bởi cuộc chiến, như cách ông thể hiện trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng năm 1991: Dĩ vãng chiến tranh quá đau thương, hào sảng và thiêng liêng, đến nỗi nhiều người cứ sống trong đó mà không thoát ra được.

“Vì cuộc sống nghiệt ngã đến nỗi ta viết xong rồi ta quên đi. Ấy thế, có những điều có muốn quên cũng không được”. Nhà văn Chu Lai bảo, từ trước đến giờ, ông viết gì thì viết, bao giờ cũng là chiến tranh. Chiến tranh ấy nhân danh người lính, ông đẩy nó đến tận cùng của sự trần trụi nhưng bên cạnh nó là sự lãng mạn. “Nếu chiến tranh chỉ là trần trụi đơn thuần thì trầm cảm mất, còn chỉ là sự lãng mạn đơn thuần thì đâu phải là ngày hội mà reo ca… Không thể viết chiến tranh theo kiểu bôi đen hay tô hồng, chiến tranh đòi hỏi viết nó như chính nó”.

Nhà văn Chu Lai nhớ lại, một thời những người lính thế hệ ông thường vang lên câu tùy bút đầy kích động: “Người lính nằm trên võng, mong chóng sáng để ngày mai vào trận”. Hình ảnh đầy tính gợi, nghe hừng hực ý chí, nghe như ào ào Trường Sơn ấy, bây giờ nhiều người nghe lại cho rằng thật hài hước. Hài hước ở chỗ, người lính không phải robot chiến binh để mong ngày mai mau sáng để vào cuộc chiến. Đáng lẽ ra, câu nói về đề tài chiến tranh ấy có thể hay hơn: “Người lính nằm trên võng và mong trời đừng bao giờ sáng, để không bao giờ phải vào trận”. Theo nhà văn Chu Lai, so sánh ấy nói lên bản chất nhân văn của con người trong cuộc chiến. Không mong vào trận, nhưng nếu cần, mặt trời lên, người lính sẽ chiến đấu như một con người đầy tự trọng.

Trầm tích dội về

Trong sự nghiệp cầm bút, Chu Lai luôn đau đáu: Văn là mình. Viết về con người chân xác bao giờ cũng tiệm cận trái tim người đọc, mà hơn cả là để bù đắp tinh thần cho chính mình. Viết về con người thì có nhiều điều khó nói, khó nói hết... nhưng bằng cách này hay cách khác, nhà văn đưa được nó lên trang giấy, thành chữ nghĩa, đọng lại ấn tượng. Như câu chuyện người lính trong một trận pháo kích. Pháo bắn thẳng theo hướng trái vào căn cứ, anh đứng ở cửa hầm, giơ hai tay lên trong khi đúng ra phải thụt đầu xuống. Chỉ huy quát, người lính bảo: Anh cứ để em giơ tay lên, đêm qua, em nằm mơ thấy mẹ, mẹ gọi em về, mẹ sắp đi rồi. Thì ra, người lính mong pháo Mỹ tiện đứt hai bàn tay mình, để nếu may mắn còn được cáng ra hậu phương, được về gặp mẹ một lần.

“Hóa ra những người lính gan dạ nhất cũng có lúc yếu đuối, muốn mượn một trận pháo để tự thương tự sát, để được trở về Hà Nội, về với cha mẹ mình. Nhưng sau đó, hơi ấm của đồng đội, hơi ấm của vùng đất, của những bà con trong ấp chiến lược... đã cho họ một khí phách. Khí phách này không phải do hiệu triệu, mà do ngọn gió lịch sử từ ngàn năm lịch sử thổi thốc tháo sau lưng, tạo nên lòng tự trọng buộc người ta tiếp tục chiến đấu”, Chu Lai nói.

“Những chi tiết tưởng chừng nhỏ nhoi ấy lại là chi tiết rất đắt mà Chu Lai phải trả bằng cuộc đời chinh chiến của mình”. Nhận định như vậy, nhà văn Võ Thị Xuân Hà chỉ ra, văn học Việt Nam có nhiều cuốn viết về chiến tranh hay, của Bảo Ninh, Chu Lai, Trung Trung Đỉnh, Bùi Việt Sỹ... nhưng người đọc vẫn không thấy nhàm chán. Nhàm chán làm sao được khi người ta còn quá nhiều điều để khai thác về nó. Như Chu Lai cũng khẳng định: “Về chiến tranh, tôi nghĩ rằng đến bây giờ có viết kiểu gì cũng không hết được. Nó là đề tài càng đào sâu càng màu mỡ, càng khai thác càng phì nhiêu, và càng lùi ra xa thì trầm tích của chiến tranh càng dội về mãnh liệt”.

Chu Lai viết tiểu thuyết, kịch và phim đều về chiến tranh và cho rằng, những câu chuyện thời chiến, dù thời gian có lùi xa bao lâu chăng nữa thì vẫn luôn là một dẫn dụ không ngừng. Ông cũng thừa nhận, nếu không trải qua cuộc đời trận mạc, ông khó có thể viết về chiến tranh chân thực như vật, nhưng tin rằng, đề tài chiến tranh không phải đặc quyền của các nhà văn đàn anh, mà những ngòi bút trẻ với sự chiêm nghiệm, suy nghĩ, yêu mến mảng đề tài sẽ tạo ra tác phẩm hay. “Chiến tranh nếu đẩy đến tận cùng của mọi sự hỉ, nộ, ái, ố, đẩy đến tận cùng của mọi sự vui buồn và trầm lại một chút thì vẫn hấp dẫn như bất cứ đề tài nào khác. Chiến tranh là một loại dung dịch thả xuống chiến hào khiến cho tất cả màu sắc con người bật lên. Những tác phẩm ấy sẽ cộng hưởng giúp mỗi người hiểu về câu chuyện chiến tranh, về những giá trị thuộc về quá khứ xa xôi nhưng vẫn còn vẹn nguyên giá trị đến ngày hôm nay”.

Theo Hải Đường - ĐBND
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Cùng thời điểm, nhà văn Bích Ngân giới thiệu đến bạn đọc 3 tập sách: Anh nhớ em muốn chết!Tiếng gọi bến bờ và Đường đến cây cô đơn, do NXB Tổng hợp ấn hành. 

  • Nhằm giúp các bạn học sinh có một nền tảng kiến thức văn học phong phú, vững vàng, NXB Kim Đồng tổ chức biên soạn Tủ sách Văn học trong nhà trường, với sự tham gia biên soạn, tuyển chọn, bình giảng của các chuyên gia uy tín trong lĩnh vực này.

  • Nhằm giúp các bạn học sinh có một nền tảng kiến thức văn học phong phú, vững vàng, Nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức biên soạn Tủ sách Văn học trong nhà trường, với sự tham gia biên soạn, tuyển chọn, bình giảng của các chuyên gia uy tín trong lĩnh vực này.

  • Nhìn từ phía viết văn, nghề báo giúp người làm văn chương có cảm quan hiện thực bén nhạy, tinh tế, sự dấn thân mạnh mẽ, vốn liếng ngôn từ sống động, cập nhật. Nhìn từ phía nghề báo, năng lực văn chương giúp người làm báo kỷ luật ngôn ngữ cao độ, khả năng liên tưởng dồi dào, lối viết biến hóa và linh hoạt, và nhất là khát vọng sáng tạo những tác phẩm có sức sống lâu bền.

  • Nói thế vì còn có Dương Tường của báo, của thơ, của văn. Nhưng Dương Tường dịch là được biết đến nhiều nhất. Nhắc tên Dương Tường, bạn đọc cả nước đều biết đó là một dịch giả. Và đều tỏ lòng khâm phục tài dịch của ông.

  • Sáng 6-9, tại Nhà sách Cá Chép (115 Nguyễn Thái Học, Hà Nội) đã diễn ra buổi ra mắt bản dịch đầy đủ “Hán Sở diễn nghĩa” và giới thiệu bộ sách “Hán Sở diễn nghĩa liên hoàn họa”, với sự tham gia của dịch giả Châu Hải Đường, nhà báo Yên Ba và nhà sưu tập Từ Xuân Minh.

  • Có một “Tây Tiến” trong thơ và cũng có một “Tây Tiến” bằng văn xuôi. Đó chính là những gì chứa đựng trong tập hồi ký “Đoàn binh Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng vừa được nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt bạn đọc. Tập hồi ký thuật lại sinh động và chi tiết quãng thời gian Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến.

  • Có người trực tiếp cầm súng chiến đấu ở chiến trường, có người bước chân vào quân ngũ khi đất nước đã hòa bình. Dù ở thời bình hay thời chiến, bằng tài năng và trải nghiệm của mình, họ đã và đang được xem là những nhà văn của lính, khi mang đến những tác phẩm gợi nhớ về quá khứ hào hùng.

  • Hội thảo "Thơ và văn xuôi ĐBSCL 45 năm" (1975 - 2020) vừa được tổ chức tại Bến Tre ngày 26-8. 

  • Chỉ tính riêng năm 2019, ngoài các bài viết, thơ đăng rải rác trên các báo, Nguyễn Hồng Vinh đã xuất bản hai tập sách: Xanh mãi (quý 2) và Giữ lửa tập 3 (quý 3).

  • Nhà văn chiến trường là những người gánh trên vai 2 sứ mệnh: chiến đấu và viết. Việc viết có thể diễn ra giữa những ngày bom rơi đạn nổ, cũng có thể sau khi đã lặng im tiếng súng. Họ viết như là một sứ mệnh không chỉ cho riêng mình. Nhà văn Đoàn Tuấn là một trong những người như vậy.

  • Chưa khi nào chúng ta được chứng kiến một nền văn học trẻ sôi động và không ngừng cập nhật như lúc này, cho dù đang ở tình trạng được đón chào khá nồng nhiệt nhưng lại dễ dàng bị lãng quên nhanh chóng. Có người tạo được dấu ấn nhất định, có người vẫn chưa định hướng cho bản thân và sáng tác thiếu nhiều yếu tố...

  • Sáng ngày 8/8, NXB Trẻ tổ chức buổi ra mắt sách của 3 nữ nhà văn – nhà báo: Võ Thị Xuân Hà với tập truyện ngắn “Chuyện của các nhân vật có thật trên đời”, Thùy Dương với tiểu thuyết “Lạc lối” và Y Ban với tập truyện ngắn “Có thể có có thể không”.

  • Những tác phẩm được tặng thưởng và hỗ trợ hàng năm là các công trình, bài viết lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật có chất lượng tốt được các nhà xuất bản, các báo, đài, tạp chí công bố hàng năm.

  • Năm nay, tổng số có 86 tác phẩm, trong đó có 37 sách, 49 bài viết và chương trình phát thanh được các cơ quan, đơn vị đề nghị xét tặng thưởng.

  • Phan Nhân 1972 với 400 trang sách có thể xem là cuốn hồi ký của một thế hệ học sinh trường chuyên Phan Bội Châu (thành phố Vinh, Nghệ An), còn gọi là trường Phan, được xem là trường chuyên THPT đầu tiên được thành lập tại miền Bắc Việt Nam, từ năm 1974.

  • Khi các trường ca: Đổ bóng xuống mặt trờiTrên đường và Ngày đang mở sáng của nhà thơ Trần Anh Thái lần lượt xuất hiện vào các năm 1999, 2004, 2007 trên thi đàn, nó ngay lập tức thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình hàng đầu cùng nhiều độc giả yêu thơ.

  • Cả cuộc đời nhọc nhằn với những con chữ, nhà văn - nhà báo Trần Bạch Đằng đã sống trọn vẹn với cách mạng, nghề viết và đồng đội.

  • Ở giai đoạn nào Hoài Thanh cũng có đóng góp quan trọng cho sự nghiệp văn học của đất nước. Mỗi bài viết của ông đều ghi nhận tài năng phê bình kiệt xuất, tấm gương sống trung thực và lao động bền bỉ.

  • 1. Đời người trăm năm như nhau, nhà văn Tây hay ta gì gì ông Trời cũng chẳng ưu ái thêm ngày nào, vậy mà bên trời ấy thế hệ này đến thế hệ khác nảy nòi bao nhiêu tiểu thuyết gia lớn. Còn ta thì không. Tại sao?