Những ngôi làng biển

09:12 28/08/2020

PHI TÂN

Làng Đại Lộc quê tôi cách biển không xa, nhưng người làng tôi không một ai biết đi biển đánh cá. Nghề đi biển là của những người đàn ông làng biển.

Đua ghe thúng Quảng Ngạn - Ảnh Hồ Ngọc Sơn

Những ngôi làng sát ngay chân sóng với nghề khai thác biển từ bao đời nay...

Hồi trước, đường từ làng tôi ra biển là một con đường cát trắng, thỉnh thoảng mới có một đoạn rải những tấm ri từ chiến tranh sót lại. Tất nhiên, đường như thế thì không có loại phương tiện giao thông mô đi lại được ngoài đôi bàn chân của con người. Tôi nhớ, lần đầu tôi được đi biển chơi là nhờ chú Rô và anh Cường xin ba tôi cho hai anh em cùng ra biển để chơi. Con đường toàn cát trắng ngập cả bàn chân, đi một đoạn là mỏi nên thỉnh thoảng chú Rô và anh Cường phải cõng hai anh em tôi. Cuốc bộ như thế chừng ba tiếng đồng hồ thì chúng tôi cũng đến làng biển Tân Hội.

Vượt qua những trảng cát trắng dài, những đồng cỏ cháy, những con khe nước cạn và trong, ngôi làng biển hiện ra trước mắt tôi như một ốc đảo xanh tươi. Ở đó, có những ngôi nhà xinh xắn, những bờ rào giăng trắng lưới phơi và đẹp nhất là những cây dừa thấp treo đầy trái ôm ấp quanh những ngôi nhà. Trưa hôm đó, sau khi ra tắm biển, mấy người bạn của chú Rô đãi chúng tôi món cá nục tươi hấp và sau đó giải khát bằng nước dừa...

Lần thứ hai tôi ra biển là năm học lớp 6, khi nhà trường tổ chức cho các lớp đi biển chơi. Đó không phải là chuyến đi biển đầu tiên của tôi nhưng là chuyến đi ấn tượng nhất. Ấn tượng bởi vì ở cái làng biển Mỹ Hòa heo hút giữa muôn trùng gió cát đó chỉ mấy chục nóc nhà thôi cũng có một lớp học và có một cô giáo đã bám trụ một mình để dạy học cho các lớp học ghép của làng. Đó là cô Khánh, quê ở Quảng Bình; cô Khánh gầy gò nhưng nhanh nhẹn và rất vui tính, có lẽ sự lạc quan này đã giúp cho cô có đủ tình thương để bám trụ hơn 5 năm ở đây dạy học ở làng biển hẻo lánh và buồn bã này. Nghe cô Khánh kể những chuyện gian khó của mình trong những năm tháng dài mà gương mặt hoàn toàn không gợn chút buồn. Ăn một mình, ở một mình trong căn phòng phên nứa tạm bợ, giấc ngủ hàng đêm phải giật mình nghe biển gào sóng dữ, nhất là mùa biển động. Buổi trưa hôm đó, cô Khánh còn nấu cho thầy trò từ trong làng ruộng ra một nồi khoai tím cát ăn ngọt lịm… Cô Khánh đã bền bỉ dạy học trò làng biển Mỹ Hòa, Tân Hội mấy năm trời như rứa cho đến khi hai làng này nhập vô xã Điền Lộc của tôi thì cô mới được vào dạy cơ sở chính của trường THCS Điền Lộc ở làng tôi.

Năm lớp 7 thì lớp chúng tôi đón thêm những thành viên mới đến từ hai làng biển Mỹ Hòa, Tân Hội: Tuấn, Tươi, Phương, Sương, Hường, Ti Gôn... Các bạn đi học rất chuyên cần, luôn là những người đến trường sớm nhất. Mà để đến trường sớm thì các bạn ấy phải xuất phát từ nhà từ 4 giờ sáng và có những buổi học về muộn các bạn về đến nhà trời đã chiều. Hoàn cảnh như rứa nhưng các bạn đều học từ khá đến giỏi. Sau này, Sương còn kể lại chuyện những đêm đi vô làng tôi hoặc làng Kế Môn coi chiếu bóng. Coi phim xong, ra tới đầu làng thì trăng đã tàn trên độn cát, sương đã xuống giăng mờ trên mấy bờ phi lao và mấy mệ, mấy o trong làng đã triêng gióng lên đường đi chợ Đại Lược bán cá. Xa ngái và vất vả với đường sá như vậy nhưng cứ nghe có chiếu bóng về là đứa mô cũng háo hức rủ nhau đi...

Cơn bão năm 1985, làng tôi bị thiệt hại nhiều nhưng kinh hoàng là ở những ngôi làng sát biển này. Những rặng dừa bị bão quật nằm rạp và những ngôi nhà xinh xắn bị san bằng. Sau bão, mấy học sinh trường tôi được thầy cô giáo dẫn ra thăm các bạn để cùng động viên mấy bạn tiếp tục đến trường. Gặp bạn đang ngồi trong cái chòi che tạm nước mắt chảy dài. Sau cơn bão này thì có mấy bạn nghỉ học...

Nhớ đến những làng biển là lại nhớ những trận banh trên sân Đồng Dạ làng tôi. Năm đó xã tổ chức giải bóng đá giữa các thôn. Đội banh làng tôi là chủ nhà lại chinh chiến nhiều nên có phần coi nhẹ hai đội banh làng biển. Không ngờ mấy cầu thủ chân trần trên cát trắng đá quá hay. Làng Tân Hội cỡ chừng hơn 30 nóc nhà, đội banh chỉ 3 cầu thủ dự bị, rứa mà chỉ chịu thua đội banh làng tôi sát nút. Nhưng đội banh Mỹ Hòa mới thiện chiến. Họ vừa chạy nhanh vừa bền sức, lại có kỹ thuật. Tôi hồi đó con nít, đi coi đá banh mà còn nhớ tên trung vệ Tiến Hậu đá tốt cả hai chân, bọc lót không sót đường banh tấn công mô của đối phương; tiền vệ Tất nhỏ con, chỉ mang một chiếc tất màu đen ở chân trái khi thi đấu chạy nhanh như con còng còng; cầu thủ chạy cánh Dài có mái tóc dài như Gulit của đội tuyển Hà Lan nhưng tóc mọc thẳng hơn; hay tiền đạo Tuấn “hề” có bộ râu như chú hề cải lương và có cú ngoặt bóng không giống ai. Đội banh làng tôi chủ quan nên bị đội banh Mỹ Hoà dẫn 2 - 1, đến gần cuối trận đấu đội banh làng tôi mới gỡ hòa nhờ quả phạt đền. Sau trận đấu, nhiều người nói đội banh làng biển Mỹ Hòa hay hơn; đội làng Đại Lộc mình gỡ hòa là nhờ trọng tài nhà thiên vị. Tôi hơi buồn nhưng cũng công nhận đội Mỹ Hòa hay.

Con đường bê tông nối làng tôi với hai làng biển đã được xây dựng cũng mấy chục năm rồi. Những làng biển không còn là ốc đảo xanh tươi như xưa. Tôi có mấy lần ra làng biển coi đua ghe hay công chuyện nhưng không gặp lại bạn học năm cũ. Bạn tôi họ Lại rồi có cả một dòng họ Chế ở làng biển Mỹ Hòa này. Những làng biển đã mang trong mình nhiều trầm tích văn hóa và lịch sử...

Có thằng bạn hay tếu táo của tôi vô Sài Gòn chơi. Anh em bạn bè lâu ngày hỏi mi bữa ni làm chi rồi? Hắn trả lời tỉnh bơ rằng, tau đang làm ở phi trường. Ai cũng ngạc nhiên nói mi học sư phạm mà, làm trái nghề à? Hắn mới cười nói tau dạy ngoài biển phường Tri, Phong Hải đó; thì ra bạn ấy đang chơi trò nói lái. Những làng biển ở phía Đông Bắc xứ Huế còn gọi là phường: phường Tri, phường Chứa, phường Ngon... Làng biển Hải Nhuận vừa mới được công nhận là làng nghề truyền thống nước mắm của tỉnh Thừa Thiên Huế xưa kia gồm 2 phường là phường Nạng và phường Đoài thuộc làng Thế Chí Đông. Đến đời vua Tự Đức mới xin triều đình nhà Nguyễn tách ra thành làng Hải Nhuận để thuận lợi hơn về địa lý cũng như nghề đi biển. Người đã giải quyết đơn xin tách làng cho hai phường Nạng và phường Đoài là quan đại thần Trương Như Cương với lời châu phê: “Bạch sa Hoàng sa biệt vi Hải Nhuận” (có nghĩa là làng Hải Nhuận được chia nơi nào có cát trắng và cát vàng). Cái tên làng Hải Nhuận cũng được ra đời từ lời châu phê của ông Trương Như Cương.

Suốt dọc vùng cát Ngũ Điền, thường thì cứ sau một làng làm ruộng cách một bãi cát trắng dài là có từ một đến hai làng biển sinh sống. Điều lạ là sau hai làng làm ruộng Kế Môn và Vĩnh Xương lại không có một làng biển nào mà chỉ là một bãi biển dài xanh một màu phi lao. Thực ra thì những năm 1980 có một làng biển phía sau độn làng Kế Môn là làng Trung Hải. Nhưng đây là một làng biển giãn dân từ Phong Hải lên trong những năm đầu hòa bình. Làng mới Trung Hải chỉ lèo tèo vài nóc nhà. Quanh làng là những trằm nước cạn. Đó là nơi sinh trưởng lý tưởng của cây cỏ cồn. Tôi nhớ có một mùa hè khi bông cỏ cồn được thu mua, từ người lớn đến trẻ con xóm tôi bới cơm ra Trung Hải nhổ cỏ cồn. Đến giờ ăn trưa, mấy đứa trẻ con trong làng ra nhìn chúng tôi ăn. Chúng cũng đang đói. Cô Nhạ hàng xóm tôi đã bớt đi mấy phần cơm cho mấy đứa nhỏ. Làng Trung Hải tồn tại chừng mấy năm. Người dân đánh cá, trồng khoai không đủ ăn nên buộc họ trở về bản quán hoặc xa xứ tìm kế mưu sinh...

Có lần tôi về Phong Hải chơi và được mấy người quen đánh xe chạy lên làng biển Trung Đồng ăn kỵ. Làng Trung Đồng là làng biển địa đầu của Thừa Thiên Huế giáp với làng Khê, Quảng Trị. Đây là một làng biển ra đời từ lâu và cũng chịu nhiều biến cố. Tôi không còn nhớ chủ nhà tên chi nhưng chỉ biết chú ấy họ Văn. Theo lời kể của chú thì họ Văn của chú là một trong bốn họ khai canh của làng Trung Đồng. Ngày xưa, ngài thủy tổ của họ Văn có gốc tích từ họ Văn làng Phong Lai, huyện Quảng Điền đã vượt phá Tam Giang rồi theo đường bộ và dừng chân tại bãi biển hoang sơ. Ông đã cùng mấy người con lấy kinh nghiệm đánh cá trên phá mà làm nghề đánh cá trên biển để lập nên xóm nên làng. Họ Văn sau này thành một họ lớn của làng Trung Đồng...

Nhưng làng biển Trung Đồng này đã gặp một biến cố đau thương vào năm 1947 khi giặc Pháp tràn vào làng. Gần như toàn bộ làng biển này bị lửa giặc thiêu rụi và chỉ những người đi đánh cá ngoài khơi và những người đi buôn bán xa làng là còn sống sót. Như họ Văn của chú chủ nhà chỉ còn lại 7 người đàn ông. Những ngư dân làng biển Trung Đồng đã không bỏ làng bỏ biển mà đi mà họ đã gây dựng lại làng từ tro tàn. Thì ra ngày hôm đó là ngày kỵ chung của làng Trung Đồng để tưởng nhớ những con dân làng đã mất trong vụ thảm sát năm xưa...

P.T
(SHSDB37/06-2020)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Báo Tin Tức Chúa Nhựt, 3.11.1940 mở đầu bằng mấy hàng như sau: “Hai mươi chín tháng Chín Annam (20 Octobre 1940). Thêm một ngày đáng ghi nhớ. Một người đã mất: cụ Sào Nam Phan Bội Châu

  • Với giọng văn sinh động, pha chút hài hước, hình minh họa ngộ nghĩnh, phù hợp với lứa tuổi học trò: “Chuyện kể về thầy trò thời xưa”, “Những tấm lòng cao cả” hay bộ văn học teen “Cười lên đi cô ơi”… sẽ đem đến cho độc giả nhiều cung bậc cảm xúc và hoài niệm.

  • Trong tất cả các Ni sư Phật giáo mà tôi được biết và chịu ơn hoằng pháp vô ngôn, có lẽ người gần gũi với tôi nhất trong đời là Cố Đại Trưởng lão Ni chúng – Sư Bà Cát Tường - nguyên trụ trì chùa sư nữ Hoàng Mai ở Thủy Xuân – Huế.

  • LTS: Nhà thơ, nhà văn Thanh Tịnh năm 78 tuổi sức khỏe không còn như buổi thanh niên, nhưng ngòi bút của ông vẫn còn cái sung sức của một người đã từng yêu du lịch và làm nghề hướng dẫn khách du lịch toàn Đông Dương. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc những trang hồi ký đầy lý thú của Thanh Tịnh.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Tôi không có dịp được học với thầy Phạm Kiêm Âu, người thầy nổi tiếng ở Huế, nhưng lại có cơ duyên cùng dạy ở trường nữ trung học Đồng Khánh với thầy trong các năm 1974 - 1975.

  • Vậy là nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã về cõi thiên thu giữa một sáng mùa thu Hà Nội lay phay gió mù u!...Trước khi chưa kịp được vuốt mắt, dường như đôi đồng tử của ông vẫn còn lưu giữ lại hình ảnh đau đáu về con sông Cụt quê nhà.

  • Với một tướng lãnh võ biền, thì mục tiêu cuộc dẹp loạn là đánh tan loạn quân, rồi ca khúc khải hoàn, ăn mừng chiến thắng.

  • PHÙNG TẤN ĐÔNG

    Đời của nó như thể bềnh bồng
    Cái chết của nó như thể an nghỉ

                               F.Jullien
    (Dẫn nhập cuốn “Nuôi dưỡng đời mình - tách rời hạnh phúc” - Bửu Ý dịch, 2005)

  • THANH TÙNG

    Hiệp định Genève ký kết, sông Bến Hải tưởng chỉ là giới tuyến tạm thời, không ngờ đã trở thành ranh giới chia cắt đất nước Việt Nam hơn 20 năm. Nỗi đau chia cắt và biết bao câu chuyện thương tâm, cảm động đã diễn ra ở đôi bờ Hiền Lương kể từ ngày ấy. Nhiều cuộc tình đẫm máu và nước mắt. Có những đôi vợ chồng chỉ ở với nhau đúng một đêm. Có người chồng Bắc vợ Nam, khi vợ được ra Bắc thì chồng lại đã vào Nam chiến đấu, đời vợ chồng như chuyện vợ chồng Ngâu.

  • Thưởng thức là ngưỡng cửa của phê bình. Chưa bước qua ngưỡng cửa ấy mà nhảy vào cầm bút phê bình thì nhất định mắc phải những sai lầm tai hại. Không còn gì ngượng bằng đọc một bài người ta đem dẫn toàn những câu thơ dở và những câu ca dao dở mà lại đi khen là hay”. (Vũ Ngọc Phan, trích từ Hồi ký văn nghệ, tạp chí Văn Học, Hà Nội, số 4 năm 1983, trang 168).

  • VƯƠNG TRÍ NHÀN

    I
    Hè phố Hà Nội vốn khá hẹp, chỉ có điều may là ở cái thành phố đang còn lấy xe đạp làm phương tiện giao thông chủ yếu này, người đi bộ có phần ít, phía các phố không phải phố buôn bán, vỉa hè thường vắng, bởi vậy, nếu không quá bận, đi bộ lại là cái thú, người ta có thể vừa đi vừa nghỉ, thoải mái.

  • Gặp người thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm xưa, tôi có dịp biết thêm những tình tiết mới quanh câu chuyện hơn 30 năm về trước khi tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng được tái bản lần đầu.

  • THẾ TƯỜNG
                   

    "Quê hương là chùm khế ngọt
    cho con trèo hái cả ngày"

  • Một nhà báo Pháp sắp đến Việt Nam để tìm lại một di sản chiến tranh, nhưng ở một khía cạnh nhân văn của nó - đó là những con người, địa điểm từng xuất hiện trong các bức ảnh mà nữ phóng viên chiến trường nổi tiếng Catherine Leroy ghi lại trong cuộc tấn công Mậu Thân vào thành phố Huế. 

  • Thanh Minh là bút danh chính của Nguyễn Hưu(1), người làng Yên Tập, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, nay là xã Tân Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

  • LTS: Nhà văn Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải, sinh năm Bính Ngọ 1906 ở Tuyên Quang, song lại có gốc gác dòng họ Nguyễn ở Huế. Ông nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam từ những năm 1930 - 1945, được mệnh danh là “nhà văn đường rừng”, để lại hàng trăm tác phẩm văn học, trong đó có gần 50 cuốn tiểu thuyết.

  • Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.

  • Tháng Bảy âm. Tháng cô hồn. Mồng một âm đã rả rích mưa báo hiệu cho một tháng âm u của Tiết Ngâu. Sắp rằm, tâm trí chợt như hửng ấm khi tiếp được cái giấy Hà Nội mời dự lễ khánh thành nhà bia và Khu tưởng niệm đồng bào ta bị chết đói năm 1945. Chợt nhớ, công việc này đã manh nha từ hơn mười năm trước…

  • LTS: Nguyễn Hưu, bút danh Thanh Minh, sinh năm 1914, quê huyện Can Lộc, hoạt động báo chí và văn học từ những năm 1934 - 1935. Ông là nhà báo, nhà thơ, dịch giả Hán - Nôm, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà quản lý văn hóa văn nghệ có nhiều thành tựu và cống hiến. Ông là Hội trưởng Hội văn nghệ Hà Tĩnh đầu tiên. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông [21.8], VHNA sẽ lần lượt đăng một số bài viết về ông.

  • Vùng quê nghèo chúng tôi nằm sát chân núi Hồng Lĩnh có Hàm Anh (nay là xóm 1 xã Tân Lộc) từng sản sinh ra một Tiến sĩ xuất thân Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) (1499) đời Lê Hiến tông tên là Phan Đình Tá (1468-?)