Những năm 'sóng gió' của Văn Miếu

08:12 15/02/2017

Ít ai biết Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) từng bị sử dụng làm nơi đóng quân, có thời gian lại dùng làm điểm “cách ly dã chiến” cho việc đối phó với dịch tả ở Hà Nội.

Vườn bia phía tây Văn Miếu trước đây

Những văn bản “đòi lại” Văn Miếu đã được trưng bày trong triển lãm Văn Miếu - Quốc Tử Giám giai đoạn 1884 - 1945 qua tư liệu lưu trữ. Chúng cho thấy một thời gian dài người dân Hà Nội đã bị tước mất chỗ tế lễ. Trong khi đó, chính người Pháp cũng không nhận thức đúng về di tích này trong thời gian đầu chiếm đóng. Trong nhiều văn bản từ 1895 - 1905, người Pháp nhiều lần gọi Văn Miếu là Chùa Quạ do nhầm đây là một ngôi chùa có nhiều quạ. Giai đoạn 1884 - 1945 thực sự là những năm đầy “sóng gió” của di tích này.

“Trạm y tế dã chiến”

Công văn số 28 ngày 27.3.1895 của Công sứ Quảng Yên gửi Công sứ Hà Nội viết: “Tôi xin hân hạnh thông báo để ngài biết các quan lại bản xứ và dân làng Quỳnh Lâu đã đề nghị cho họ được khởi phục việc tế lễ tại Văn Miếu - nơi trại lính Quảng Yên đang đóng quân”. Bức điện số 831 ngày 2.4.1895 do Sở Quan hệ với người bản xứ của Chính phủ bảo hộ Pháp gửi Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp lại có đoạn: “Ngôi chùa (Văn Miếu) đã bị quân đội chiếm đóng từ năm 1884; đến năm 1888, do yêu cầu bảo mật, bên quân đội đã cấm người An Nam vào chùa cúng tế. Biện pháp này tỏ ra không hợp lý. Hiện nay, số quân đồn trú trong trại lính Quảng Yên đã giảm xuống nhiều, chỉ còn khoảng 30 người (lúc đầu là 2 đại đội). Vì vậy kính mong ngài xem xét trả lại ngôi chùa cho bên dân sự để phục hồi việc tế lễ”.
 
Trên thực tế, chỉ 2 năm sau khi thành Hà Nội thất thủ, Văn Miếu bị quân đội viễn chinh chiếm đóng và biến thành trại lính thuộc địa Quảng Yên rồi trại lính kèn Bắc kỳ (1884 - 1902). Thậm chí, tháng 6.1903, khi Hà Nội có dịch tả, vì nơi cách ly ở Bệnh viện Bạch Mai đã bị đổ do bão, Văn Miếu được “trưng dụng” thành khu cách ly người bệnh. Khu thờ tự giáo dục phong kiến quan trọng của người Việt bị biến thành “trạm y tế dã chiến”. Bệnh dịch lui sau ba tháng và người Việt lập tức đòi trả lại công năng cũ cho Văn Miếu.
 
Những năm 'sóng gió' của Văn Miếu 1
Toàn cảnh Văn Miếu trước đây Ảnh: Ngữ Thiên chụp lại tư liệu triển lãm

Tháng 3.1904, Văn Miếu được tẩy trùng hoàn toàn và “sẵn sàng mở cửa trở lại phục vụ việc tế lễ”. Sau đó hơn một năm, tháng 4.1905, Văn Miếu được công nhận là di tích của Hà Nội cần bảo vệ.
 
TS Nguyễn Thu Hoài, Phó giám đốc Trung tâm lưu trữ quốc gia I, nhận xét: “Xem lại các kiến nghị, công văn lưu trữ, qua vụ việc này có thể thấy rõ thái độ của người Việt và các nhà cầm quyền người Pháp khi đó. Cuối cùng thì người Pháp đã không thể dễ dàng bỏ qua tình cảm của những người dân bản địa với nghi lễ thiêng liêng của họ và buộc phải nhanh chóng có những hành động xoa dịu”. Đây cũng là lần đầu tiên các tư liệu này được đem ra trưng bày.
 
 
 
Triển lãm Văn Miếu - Quốc Tử Giám giai đoạn 1884 - 1945 qua tư liệu lưu trữ, do Trung tâm lưu trữ quốc gia I và Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám tổ chức, diễn ra từ nay đến ngày 16.3 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Triển lãm có 100 tư liệu, hình ảnh, bản đồ được khai thác từ Trung tâm lưu trữ quốc gia I, trong đó có nhiều tư liệu lần đầu tiên được công bố.
TS Nguyễn Thu Hoài, Phó giám đốc Trung tâm lưu trữ quốc gia I, nói: “Nguồn tài liệu được khai thác chủ yếu từ các hồ sơ tư liệu Thống sứ Bắc kỳ, Địa chính Hà Nội, Tòa thị chính Hà Nội và Công báo Đông Dương gồm tài liệu hành chính, bản vẽ, bản đồ, ảnh... Bản gốc các tài liệu này hiện đang được bảo quản tại Trung tâm lưu trữ quốc gia I, tài liệu cung cấp là các bản sao số hóa từ tài liệu gốc”.
 
Khôi phục nghi thức và hình ảnh di tích

Các sĩ phu đại diện cho nhân dân, những quan lại tiến bộ đã có nhiều phản đối, kiên trì kiến nghị khôi phục chức năng của Văn Miếu. Từ năm 1885, đã có những kiến nghị đầu tiên đòi trả lại Văn Miếu cho người Việt và khôi phục việc tế lễ ở đây. Những kiến nghị cùng nội dung này tiếp tục xuất hiện nhiều lần trong các năm 1895, 1900, 1901... Cuộc đấu tranh đã nhận được sự đồng thuận ủng hộ của một số trí thức Pháp tiến bộ, đặc biệt là các nhà khoa học ở Trường Viễn Đông Bác cổ khi đó và từng bước có kết quả. Từ năm 1898, lễ tế thu được khôi phục. Năm 1901, khôi phục lễ tế xuân. Từ năm 1905 về sau, cả hai lễ tế xuân - thu đều được tiến hành trong một năm.
 
Những người yêu quý và bảo vệ Văn Miếu còn tu sửa di tích này nhiều lần. Các đợt chính tập trung trong các năm: 1888, 1897 - 1901, 1904 - 1909 và các đợt nhỏ khác trong các năm từ 1923 đến 1945. Để tu bổ, có một hội đồng quản lý Văn Miếu và các nhà nho Hà Nội, Hà Đông chịu trách nhiệm trực tiếp tu sửa, bảo vệ di tích. Trường Viễn Đông Bác cổ tư vấn về chuyên môn và kinh phí tu sửa do Chính phủ bảo hộ Pháp, TP.Hà Nội và tỉnh Hà Đông cấp một phần. Phần còn lại lấy từ tiền thu hoa lợi trên đất Văn Miếu.
Đáng chú ý là có cả công văn khẳng định trách nhiệm tu sửa Văn Miếu không chỉ của Hà Nội mà còn ở cấp cao hơn. Đó là Công văn số 145, ngày 3.2.1900 của Công sứ Hà Nội gửi Thống sứ Bắc kỳ. Công văn có đoạn: “Việc tu sửa Văn Miếu là việc cấp bách không thể trì hoãn. Đây là một di tích quan trọng nằm trên địa bàn Hà Nội nên việc tu sửa không chỉ thuộc trách nhiệm của thành phố mà còn là của Chính phủ bảo hộ”.
 
Trong triển lãm, có một văn bản của quan lại người Việt gửi, kiến nghị cho xác định mốc giới của Văn Miếu vào ngày 26.1.1899. Sau đó, ngày 29.4.1899, Đốc lý Hà Nội có quyết định xác định mốc giới của Văn Miếu gồm khu vực trong tường bao và khu vực Vườn Giám. Ngày 15.4.1905, Văn Miếu được xếp hạng “Công trình lịch sử của TP.Hà Nội cần được bảo vệ tại Đông Dương” và ngày 16.5.1925 được xếp hạng “Công trình lịch sử của Bắc kỳ cần được bảo vệ tại Đông Dương”. Ngày 31.5.1940, Hội đồng TP.Hà Nội ra quyết định trả lại hồ Văn cho Văn Miếu.
 
TS Lê Xuân Kiêu, Giám đốc Trung tâm hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám, cho biết: “Chính vì thế, chúng tôi muốn giới thiệu những tư liệu này để người xem rõ thêm về một giai đoạn sóng gió và gần như còn “trống” tư liệu với khách tham quan của di tích quốc gia đặc biệt này”.

Theo Ngữ Thiên - TNO
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • (SHO) – Việt Nam vừa nhận 2 giải thưởng bảo tồn di sản văn hóa 2013. Năm nay, Giải thưởng Bảo tồn di sản văn hóa do Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hiệp quốc Unesco khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tổ chức đã kết thúc với 11 giải thưởng trong tổng số 47 đề cử của 16 quốc gia trong khu vực.

  • (SHO). Bộ VHTTDL vừa có văn bản số 3146/TB-BVHTTDL thông báo bàn giao Khu Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long-Hà Nội cho UBND thành phố Hà Nội quản lý, và bảo đảm xây dựng Nhà Quốc hội như phương án đã được phê duyệt, nhằm thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam với UNESCO.
     

  • (SHO). Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định phê duyệt nhiệm vụ Quy hoạch tổng thể bảo tồn, phát huy giá trị di tích Thành Nhà Hồ và vùng phụ cận gắn với phát triển du lịch.

  • HẢI TRUNG

    Cách đây không lâu, khi hợp tác với Bảo tàng Cố cung Quốc gia Hàn Quốc thực hiện cuốn sách “Báu vật triều Nguyễn ở Việt Nam”, chúng tôi đã có dịp tranh biện với các nhà chuyên môn của bảo tàng này về cách dịch sang tiếng Anh khái niệm “vua” của triều Nguyễn.

  • NGUYỄN HUY KHUYẾN     

    Năm 1960, theo dự thảo của ông Bộ trưởng bộ Quốc gia Giáo dục cho biết Đà Lạt được tổ chức thành một thành phố du lịch, thì nên lập tại đây một Viện Bảo Tàng để thêm phần hấp dẫn du khách ngoại quốc. Với khí hậu khô ráo quanh năm của Đà Lạt, thì nơi này có thể bảo quản được nhiều tài liệu quý hiếm của triều Nguyễn được đưa từ Huế lên.

  • HỒ VĨNH

    Để điều hành đất nước, từ năm 1802-1906, nhà Nguyễn đã thiết lập 6 bộ là: Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hình, Bộ Công.

  • VĨNH PHÚC

    Nhã nhạc được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại không chỉ với thiết chế cổ xúy và ty trúc (Đại nhạc, Tiểu nhạc) như hiện nay.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGTìm cách để sử dụng tốt các ngành nghề thủ công cổ truyền là phương hướng đúng đắn để giải quyết không những vấn đề kinh tế của mỗi địa phương mà còn tạo điều kiện để duy trì và phát triển những vốn quý của dân tộc.

  • THANH TÙNGNgày 18-3-2010, tại Hà Nội, VACNE tổ chức hội thảo Vinh danh Cây di sản Việt Nam. Việc tổ chức công nhận Cây di sản Việt Nam còn có ý nghĩa bảo vệ đa dạng sinh học, hưởng ứng Năm Quốc tế Đa dạng Sinh học 2010.

  • PHAN THANH HẢILà một linh vật có mặt ở hầu khắp các nền nghệ thuật của nhân loại nhưng con rồng Việt Nam vẫn được xem là có những đặc điểm riêng độc đáo, khó lẫn lộn với rồng của các dân tộc khác.

  • PHAN THUẬN ANMặc dù con rồng là một con vật tưởng tượng đầy tính siêu nhiên, nhưng bóng dáng của nó đã trở thành rất phổ biến trong đời sống xã hội nước ta, và cũng đã tiềm ẩn trong tâm thức sâu thẳm của mọi người dân Việt.

  • NGUYỄN ĐÌNH THẢNGTương truyền, Khổng Tử, ông thánh chí tôn của đạo Nho, đã từng đến xin học “lễ” với Lão Tử, được Lão Tử thụ giáo nhiều về môn đạo đức học, một môn học mà Khồng Tử cho là khó nhất. Đạo của Khồng Tử được truyền lại cho hậu thế, chủ yếu là qua chữ “lễ” mà ngài được giáo huấn từ Lão Tử. Nó đã trở thành khẩu hiệu: “Tiên học lễ, hậu học văn” cho bao thế hệ học trò.

  • ĐOÀN MINH TUẤNĐã mấy mùa xuân, Tuấn Minh - biên dịch tiếng Pháp ở Công ty phục vụ người nước ngoài thành phố ta, nhà ở quận 3, có trao đổi với tôi một số tài liệu viết về con rồng trong cuốn “Các động vật của thế giới”. Nay chờ đến năm Thìn qua sổ tay ghi chép có dịp soạn lại cho bạn đọc làm quà xuân.

  • LÊ VIẾT THỌ“Đối với tôi, nghệ thuật là một trạng thái của linh hồn”                                                  Marc Chagall.

  • TÔN THẤT BÌNH Ca Huế là loại nhạc cổ truyền được phát sinh và phát triển lâu đời. Tuy nhiên, tìm hiểu nguồn gốc và thời điểm phát sinh thì có nhiều ý kiến khác nhau.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN Huế là Kinh đô của triều đại quân chủ cuối cùng ở Việt Nam . Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Huế đã đứng dậy làm cuộc Cách mạng Tháng tám thành công, chấm dứt thời đại quân chủ đã tồn tại hàng ngàn năm trên đất nước ta và chuyển qua chế độ dân chủ cộng hoà. Đánh dấu sự kiện lịch sử vẻ vang ấy là việc vua Bảo Đại trao ấn kiếm cho phái đoàn đại diện Chính phủ VNDCCH do ông Trần Huy Liệu dẫn đầu.

  • TRẦN VĂN KHÊChương trình Văn hóa của Unesco trong hai năm tới (2000 - 2001).Tôi vừa dự xong cuộc thảo luận về Chương trình lớn số III, trong dịp Unesco họp Đại hội tại trụ sở Paris, từ ngày mùng 8 đến ngày 11 tháng 11 dưng lịch năm nay (1999) với tư cách Thành viên Hội đồng Quốc tế Âm nhạc.

  • NGUYỄN SINH DUYMỹ Sơn: thung lũng các vua thánh

  • LTS: Liên tiếp trong hai ngày 30 tháng 9 và 1 tháng 10 năm 2009, tại Abu Dhabi, Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, Quan họ Bắc Ninh và Ca Trù của Việt Nam đã chính thức được Tổ chức Văn hóa Khoa học Giáo dục Liên Hợp Quốc (UNESCO) ghi danh vào danh sách di sản văn hóa của nhân loại. Quan họ Bắc Ninh được ghi vào danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể Đại diện của nhân loại; Ca trù được ghi vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.

  • TRẦN VĂN QUYẾNTrong quá trình đi điền dã thu thập tư liệu Hán Nôm ở huyện Phú Lộc Thừa Thiên Huế, chúng tôi đã được tiếp cận hai đạo sắc phong cho người có công trị thủy ở từ đường dòng họ Lê Kim, thôn Đông, làng Bàn Môn, xã Lộc An.